Báu vật của làng Rồng
Nỗi truân chuyên làng nghề
Năm tháng đi qua, từ nghề thu gom phế liệu để mưu sinh lúc ban đầu, các bậc tiên hiền của làng Rồng cho ra đời nghề đúc đồng. Nhờ cái nghề vô cùng gian nan vất vả nhưng đầy lãng mạn ấy mà người làng Rồng trở nên có danh có phận. Và người ta trân trọng nâng niu cái nghề đã nuôi sống bao kiếp người của làng còn hơn cả một thứ báu vật vô giá.
Truyền thuyết của làng lại kể rằng, người truyền nghề đúc đồng cho bà con làng Rồng là Khổng Minh Không, vị Quốc sư triều nhà Lý ở thế kỷ thứ XII. Để tỏ lòng biết ơn Khổng Minh Không, người dân nơi đây đúc tượng đức Tổ sư thờ cúng và thành tâm hương khói quanh năm cho Ngài.
Nghệ nhân Dương Văn Ban nay đã ở cái tuổi ngoài bát tuần xúc động tâm tình, mình theo các bậc “tiên chỉ” trong nhà, trong làng học nghề đúc đồng từ thuở mới 13 tuổi. Đến năm 16 tuổi thì người nghệ nhân thuộc lớp người “xưa nay hiếm” của làng Rồng chính thức ra nghề.
Xưa nay, hễ nói tới nghề đúc đồng ở xứ Bắc nước Việt ta thì thiên hạ thường chỉ quen nhắc tới những địa chỉ mà họ cho rằng, đấy mới là những làng nghề truyền thống “có số, có má” bậc nhất. Ví như làng đúc Đồng Ngũ Xá của Hà Nội. Rồi thì làng Tống Xá thuộc huyện Ý Yên, Nam Định. Và nữa là làng Đại Bái của Bắc Ninh,… chứ mấy ai tỏ tường rằng, quê nhãn Hưng Yên cũng là một trong những địa chỉ sinh ra những làng nghề chuyên đúc đồng nổi tiếng từ thời “cổ tích”, trong đó có làng Rồng.
Cụ Ban thổ lộ, đâu như một số phường thợ giỏi ở làng Rồng đã lên kinh thành Thăng Long cùng một số phường nghề khác lập nên làng nghề Ngũ Xá lừng danh. Người làng Rồng bảo, là một trong những cây cao bóng cả của làng nên nghệ nhân Dương Văn Ban là “cuốn sử sống” của làng. Kể về quá trình hình thành, phát triển của nghề đúc đồng làng Rồng, người nghệ nhân già bồi hồi nhớ lại, có được cái danh cái giá như bây giờ các thế hệ thợ thuyền của làng đã từng trải qua bao phen thăng trầm khốn khổ.
“Đặc biệt là quãng thời gian từ 1970 cho đến 1980 của thế kỷ trước, nghề đúc đồng của làng Rồng gần như rã đám hoàn toàn” - nghệ nhân Ban xúc động chia sẻ: “Lửa nung trong các lò đúc ở làng đều nguội lạnh. Dân làng Rồng hoang mang với câu chuyện chuyển đổi nghề để may ra có thể mưu sinh dài lâu. Sau những thời khắc chấp chới khi mà cả làng đã bỏ nghề, tôi quyết định phải bám bằng được lò nung. Chỉ có thế may ra mới giữ được nghề của tiên tổ trao truyền!”.
Những năm gian lao cùng tận ấy, cả làng làng Rồng chỉ còn lại duy nhất lò đúc của gia đình ông Ban đỏ lửa. Cái lò ấy ông chung cùng ba người anh em, những người có tâm, có tình, có nghĩa với nghề tổ. Đồng thời với việc tìm đủ mọi kế xoay xở kiếm sống nuôi gia đình bằng cái lò đúc của mình, ông Ban và các bạn thợ còn đôn đáo truyền nghề cho những người trẻ với khát vọng: Sẽ khiến những que diêm cháy sáng trong đêm để các lò đúc đồng của làng Rồng sẽ được nhen nhóm lại.
Rồi ước mơ của ông Ban đã thành hiện thực. Ấy là khi nghề đúc đồng của Làng Rồng không những chẳng bị thất truyền mà bây giờ, cả làng đã có hơn một trăm lò đúc rực lửa quanh năm. Nhưng với người nghệ nhân tài hoa ấy thì năm người con trai cùng các hậu duệ đang hăm hở nuôi dưỡng khát vọng sáng tạo nên những sản phẩm đồng đúc có “thương hiệu” riêng nhằm làm phong phú hơn nghệ thuật đúc đồng truyền thống của làng Rồng mới chính là “của để dành” mang giá trị lớn nhất cuộc đời mình.
Muốn giữ nghề, phải nuôi dưỡng trong lòng một chữ “Tâm”
Dẫu là người “sinh sau đẻ muộn”, nhưng bởi sớm có “duyên phận” với nghề đúc đồng truyền thống, ông Dương Văn Tập sớm đứng trong hàng ngũ những nghệ nhân “có số má” của làng Rồng. Ông Tập chia sẻ rằng, mình đến với nghề theo kiểu cha truyền con nối. Mới mười tuổi ông Tập chính thức được bố truyền cho những bí quyết của nghề đúc đồng.
Theo ông Tập, mỗi tác phẩm tượng đồng là một câu chuyện thuộc về thế giới tâm linh gói ghém trong đó. Vậy nên, nếu người sáng tạo ra nó không nuôi dưỡng trong tâm hồn mình một chữ tâm thì không bao giờ bức tượng ấy thể hiện được sự chân thật sống động có thần thái. “Chả biết thiên hạ quan niệm thế nào chứ với tôi thì cái đẹp của một tác phẩm tượng đồng thủ công truyền thống chính là ở chỗ đó” - Nghệ nhân Dương Văn Tập khẳng định.
Đắm đuối và đầy những say sưa “thổi hồn” vào những bức tượng đang làm, anh Dương Việt Bách, một người thợ trẻ nhưng đã “có tiếng tăm” từ rất sớm ở làng Rồng cho hay: “Đây là những tác phẩm mà tôi vô cùng tâm huyết. Các tượng được đúc bằng chất liệu đồng thau, có màu giả cổ và hiện đang được thị trường rất ưa chuộng”.
Theo lời anh Bách, những sản phẩm của anh mang màu sắc giả cổ khiến cho người ta có cảm giác chúng có tuổi đời từ 50 - 70 năm. Để mang lại cái cảm giác đó, anh Bách chỉ mất hơn một tuần để thực hiện các phương pháp gia công. Anh đã phải nhờ tới công nghệ thời 4.0 kết hợp nhuần nhuyễn với vốn kiến thức mà bản thân đã “tu luyện” được từ nghề truyền thống của ông cha mới có thể tạo nên một thứ màu giả cổ riêng có cho các sản phẩm của mình.
Cùng với đó là sự phân công hóa ngành nghề mang tính chuyên nghiệp. Các hộ sản xuất đã liên kết với nhau thành lập các phường sản xuất riêng theo từng công đoạn, từng loại mặt hàng, như xưởng làm mâm, xưởng làm chậu, xưởng đúc đồ thờ cúng, xưởng đúc tượng…
Sự chuyên nghiệp ấy đã tạo cơ hội cho nghề đúc đồng của làng đang ngày càng phát triển. Sản phẩm của làng Rồng đã có chỗ đứng ổn định trên thị trường. Lớp nghệ nhân, thợ trẻ trong làng đã bảo tồn và phát huy tinh hoa của thế hệ ông cha đi trước một cách căn cơ, bài bản. Nhờ thế mà đời sống của người làng Rồng ngày một khởi sắc, phồn thực.
“Muốn trở thành một người thợ đúc đồng truyền thống vào hạng “cao thủ” nhất định phải thành thục năm khâu kỹ thuật cơ bản. Đó là các bước tạo hình; tạo khuôn để đúc thành đồng. Rồi thì khâu pha chế, nấu đồng và rót đồng; trạm khắc trên bề mặt sản phẩm. Bước cuối cùng là đánh bóng. Trong số các sản phẩm làm nên danh nên giá của làng Rồng thì làm tượng thờ là tốn công sức nhất”.
Anh Dương Việt Bách, nghệ nhân trẻ làng Rồng.