Bối cảnh mới và những yếu tố tác động đến việc khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của nông dân
Bối cảnh mới và hướng phát triển của “tam nông”
Bối cảnh mới
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhật quốc tế, Đảng ta đã ban hành một nghị quyết riêng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đó là Nghị quyết số 26/NQ-TW, ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X). Sau gần 14 năm thực hiện nghị quyết, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa to lớn, bao trùm, toàn diện: Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đạt được mức khá cao (2,94%/năm), chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện hơn. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng trưởng 8,17%/năm, cán cân thương mại liên tục xuất siêu, nông sản Việt Nam có mặt trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, đưa Việt Nam thành một trong những cường quốc nông sản; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, giảm nghèo bền vững. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới về đích sớm trước hơn 1 năm, với những thành tựu to lớn, toàn diện và lịch sử…
Tuy vậy, qua tổng kết đánh giá, chúng ta cũng nhận thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế. Giá trị tăng trưởng nông nghiệp có xu hướng chậm lại, chưa bền vững. Sản xuất nhỏ vẫn phổ biến, năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ không cao; tổ chức sản xuất chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết trong sản xuất kinh doanh; kinh tế tập thể, hợp tác xã chậm phát triển. Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa trở thành động lực chính để tạo đột phá phát triển. Nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi, vật tư đầu vào còn phụ thuộc nhập khẩu.
Thách thức về thiên tai, dịch bệnh vẫn luôn tiềm ẩn. Cơ sở hạ tầng của ngành còn yếu. Công tác dự báo cung cầu thị trường các mặt hàng nông sản thiết yếu vẫn còn bất cập. Tỷ suất lợi nhuận thấp, tình trạng thiếu việc làm tương đối nghiêm trọng; chất lượng sản phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm thiếu ổn định; giá trị bổ sung không cao; đặc biệt, trình độ đổi mới sáng tạo công nghệ còn thấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế sẵn có, tăng trưởng có xu hướng giảm. Đặc biệt, năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, đáng chú ý là khoảng cách chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản lại có mức năng suất lao động thấp nhất trong các khu vực kinh tế…
Việc xây dựng nông thôn mới gắn với đô thị hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Thu hút đầu tư cho phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn gặp nhiều khó khăn. Cơ giới hóa chưa đồng bộ, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến nông sản phát triển chậm.
Lao động nông thôn có xu hướng già hóa, năng suất còn thấp. Thu nhập ở nông thôn còn thấp, chênh lệch vùng miền, giữa nông thôn và đô thị còn cao; môi trường nông thôn còn ô nhiễm. Số hợp tác xã và số doanh nghiệp tăng nhanh trong những năm 2016 - 2020, nhưng phần lớn có quy mô nhỏ, đầu tư thấp nên hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Trong kinh tế phi nông nghiệp của khu vực nông thôn, làng nghề là loại hình sản xuất có đóng góp lớn, nhưng quy mô của các cơ sở sản xuất trong các làng nghề vẫn hết sức nhỏ bé. Sức mua của khu vực nông thôn trong những năm vừa qua đã tăng mạnh, nhưng hoạt động thương mại dịch vụ vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống chợ dân sinh. Thu nhập của phần lớn nông dân chưa cao, chênh lệch với thành thị và giữa các vùng, miền còn lớn. Tiềm lực tài chính của người nông dân còn yếu, nên họ rất khó tự đầu tư mở rộng sản xuất, tự nâng cao trình độ. Năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu còn yếu; phòng, chống thiên tai, dịch bệnh chưa đáp ứng yêu cầu.
Bước sang giai đoạn mới, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Trước bối cảnh và yêu cầu mới với nhiều biến đổi, trong đó bao gồm cả thuận lợi và khó khăn đan xen. Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh; quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ; Cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình chuyển đổi số tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội; thiên tai, dịch bệnh ngày càng phức tạp; biến đổi khí hậu đang diễn ra nhanh; những vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, phân tầng xã hội; hậu quả và tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 đã, đang và tiếp tục ảnh hưởng đến từ người dân, nhất là những người yếu thế.
Hướng phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam
Đại hội Đảng lần thứ XIII đã khẳng định: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”. Quan điểm nhất quán của Đảng ta luôn coi nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò, vị trí chiến lược đối với phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu của cả nước; nông nghiệp, nông thôn phát triển ổn định, bền vững là cơ sở để ổn định chính trị, xã hội của cả nước, phát triển đất nước bền vững. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái có hiệu quả cao, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh cần được quán triệt để nhận thức đầy đủ và đúng đắn như sau:
Phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, tích hợp đa giá trị kinh tế, xã hội và môi trường. Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh theo chuỗi giá trị bền vững, đồng thời thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính. Từng bước phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thân thiện với môi trường.
Xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại gắn với đô thị hóa. Nông thôn có kinh tế phát triển đủ sức tạo việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn không thua kém đô thị; cơ sở hạ tầng, dịch vụ và điều kiện sống tiệm cận điều kiện đô thị; bản sắc văn hóa được bảo tồn và phát huy; môi trường được bảo vệ, xanh sạch, đẹp; an ninh, trật tự xã hội được giữ vững.
Xây dựng đội ngũ nông dân theo hướng văn minh, được đào tạo đủ trình độ ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao vào sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế số; đủ bản lĩnh chính trị để đóng vai trò làm chủ trong quá trình phát triển. Xây dựng cộng đồng nông thôn gắn kết, vững mạnh, gia đình văn hóa, hạnh phúc.
Động lực để thực hiện hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; nâng cao trình độ khoa học công nghệ, trình độ văn hóa, chuyên môn và tinh thần tự chủ vươn lên của người nông dân để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng đội ngũ nông dân đủ năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển.
Mục tiêu, yêu cầu khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của nông dân Việt Nam
Mục tiêu
Khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của nông dân Việt Nam là nhằm xây dựng một đội ngũ người nông dân Việt Nam mới - nông dân văn minh, đủ sức làm chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, là những người trực tiếp đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; kết nối nông thôn với đô thị; tiếp tục đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới nâng cao, xây dựng đời sống văn hóa, nông thôn kiểu mẫu và bảo vệ môi trường sinh thái” .
Quan điểm của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã cho chúng ta một không gian rộng lớn và những yếu tố cơ bản, trọng yếu để khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của người nông dân Việt Nam, đồng thời xây dựng và phát triển văn hóa nông nghiệp sản xuất lớn để dần thay thế văn hóa nông nghiệp sản xuất nhỏ (văn hóa tiểu nông). Thực tế cho thấy trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn rất cần những hạt nhân xuất hiện từ trong chính cộng đồng nhằm mục đích dẫn dắt và truyền cảm ứng cho cả cộng đồng thực hiện công cuộc cải biến xã hội sâu sắc, chuyển nông nghiệp, nông thôn từ trạng thái của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán, manh mún, trình độ kỹ thuật, năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp, mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ cựu kiểu tiểu nông sang trạng thái của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, cùng với nó là văn hóa nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn. Giờ đây, không ai khác chính là những người nông dân có tinh thần doanh nghiệp cháy bỏng đang dần chứng minh cho điều đó.
Yêu cầu khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của nông dân Việt Nam
Một là, khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của người nông dân Việt Nam phải gắn liền sự kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong điều kiện ngày nay, tiếp thu những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại.
Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta là thành quả của hàng ngàn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường trong dựng nước và giữ nước, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh trên thế giới để không ngừng hoàn thiện và tự khẳng định mình. Đó là các giá trị: cần cù, chịu khó, sáng tạo trong lao động, dũng cảm vượt khó khăn, khiêm tốn, giản dị, khoan dung, yêu nước, yêu con người và sống thích ứng. Những giá trị truyền thống ấy đã tạo nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam và hội tụ ở sức mạnh Việt Nam để có được ngày hôm nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, người nông dân Việt Nam đang thực hiện một cuộc cải biến xã hội sâu sắc. Kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tiếp thu, sản sinh ra các giá trị hiện đại là quan điểm chỉ đạo để người nông dân Việt Nam tham gia trực tiếp vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Quá trình đó sẽ nảy sinh những giá trị văn hóa mới, đặc biệt là tinh thần doanh nghiệp, đến lượt mình, tinh thần doanh nghiệp và các giá trị văn hóa mới sẽ bồi đắp thêm cho nền tảng tinh thần, tạo động lực cho sự phát triển. Tiếp thu có chọn lọc các giá trị hiện đại trong quá trình lao động sáng tạo sẽ hình thành nhân cách mạnh mẽ của người nông dân mới, phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Văn hóa kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp của nước ta hình hành muộn, thiếu hụt nhiều nội dung và hình thức của nền văn hóa kinh doanh hiện đại nên rất cần được xây dựng, phát triển mới. Tinh thần doanh nghiệp của người nông dân là giá trị định hướng của văn hóa kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp rất cần được khơi dậy và phát huy.
Hai là, khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của người nông dân Việt Nam phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội và đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Quá trình khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp, để trở thành giá trị định hướng của văn hóa kinh doanh, phải gắn liền mục tiêu tổng quát và lâu dài của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
Quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cũng là quá trình tinh thần doanh nghiệp của người nông dân được thử thách, được tôi luyện, ngấm dần vào lối suy nghĩ và hành động, để rồi trở thành giá trị, chuẩn mực của nhân cách, lối sống của người nông dân mới Việt Nam. Lúc đó, tinh thần doanh nghiệp trở thành giá trị định hướng suy nghĩ và hành động của người nông dân Việt Nam, được mọi người cùng mong muốn và chia sẻ.
Phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học và công nghệ luôn là hướng ưu tiên trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội XIII đã khẳng định. Theo đó, cần có thêm thật nhiều người nông dân tham gia trực tiếp, thực sự là chủ thể vào quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, cần bồi đắp tinh thần doanh nghiệp, óc kinh doanh, lòng dũng cảm lập nghiệp của người nông dân.
Ba là, khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của người nông dân Việt Nam phải gắn với sự khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng cháy bỏng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Với cơ cấu dân số như hiện tại, việc khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của nông dân có tác động rất lớn đến tinh thần doanh nghiệp của toàn dân Việt Nam, tạo động lực to lớn trong việc khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Lịch sử ấy đã tạo nên cho chúng ta giá trị rất quan trọng, đó là yêu nước và đoàn kết. Ngày nay, yêu nước chính là sự tham gia tích cực nhất, chủ động nhất với tinh thần đoàn kết cao nhất, với ý chí mạnh mẽ nhất, khát vọng cháy bỏng nhất vào công cuộc phát triển đất nước, làm giàu cho bản thân và xã hội. Tinh thần doanh nghiệp sẽ là động lực và là định hướng cho hành động của mọi người dân vào việc phát triển đất nước.
Sức mạnh của văn hóa kinh doanh thể hiện ở sự đoàn kết thống nhất toàn dân trên mặt trận phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó cần tạo ra sự thống nhất trong hành động để thực hiện mục tiêu, phân phối lợi ích; tăng cường sự đối thoại giữa người dân với Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể vì mục tiêu khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp, hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa.
Bốn là, khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của người nông dân Việt Nam phải gắn liền việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuần mực mẫu người nông dân Việt Nam mới - nông dân văn minh.
Trước đổi mới, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, phân công lao động chưa sâu, thiếu hụt những tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Đồng thời, nước ta trải qua thể chế bao cấp quá lâu nên thiếu hụt những nhân cách mạnh mẽ, khát vọng cháy bỏng trong lao động sáng tạo, trong làm giàu. Nền văn hóa mới Việt Nam hôm nay nói chung và văn hóa kinh doanh Việt Nam nói riêng, cần hướng tới xây dựng lớp người mới với nhân cách mới, tự chủ, tự giác, tràn đầy sức mạnh và khát vọng vươn lên để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Đó là nhân cách của những con người có tinh thần doanh nghiệp - một nhân cách có hệ thống ứng xử biểu hiện mạnh mẽ các giá trị truyền thống tốt đẹp kết hợp với các giá trị mới của xã hội công nghiệp.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cũng chính là xây dựng nền văn hóa nông nghiệp sản xuất lớn cùng với xây dựng con người mới ở nông thôn, với những giá trị văn hóa và chuẩn mực của người nông dân văn minh, vừa thấm đẫm những giá trị truyền thống như đức tính cần cù, chịu khó, sáng tạo trong lao động, sản xuất, dũng cảm vượt khó khăn, khiêm tốn, giản dị, khoan dung, yêu nước, yêu con người và sống thích ứng, đồng thời, có tư duy đổi mới, năng động và sáng tạo, tinh thần doanh nghiệp cháy bỏng, không ngại với khó khăn và gian khổ, có ý chí vươn lên, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; có suy nghĩ độc lập, tự trọng, tự chịu trách nhiệm, có tinh thần hợp tác, làm việc có hiệu quả, chuyên nghiệp; dân chủ, trung thực, thẳng thắn, tuân thủ pháp luật, chăm lo xây dựng cộng đồng. Sự hình thành đội ngũ nông dân mới, chuyên nghiệp, có tổ chức, có trình độ quản trị tốt, sản xuất bền vững có tính quyết định sự hình thành và phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, vì suy cho cùng họ chính là chủ thể của quá trình đó.
Năm là, khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của người nông dân Việt Nam phải khẳng định được giá trị định hướng của văn hóa kinh doanh trong nền văn hóa nông nghiệp sản xuất lớn, hiện đại.
Mọi giá trị văn hóa đều được hình thành thông qua hoạt động của người dân nhằm cải biến xã hội và cải biến chính bản thân họ, đồng thời, là sự phát triển quan hệ xã hội của người dân. Những thành tựu của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là thành quả lao động sáng tạo của người nông dân và cũng chính là cơ sở để tạo ra giá trị văn hóa mới, trong đó có tinh thần doanh nghiệp. Những người nông dân mới ngày nay là chủ thể của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Sự thành công hay không của sự nghiệp đó phụ thuộc vào vai trò to lớn của họ. Tinh thần doanh nghiệp sinh ra những người nông dân mới, dũng cảm lập nghiệp, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Đến lượt mình, những người nông dân mới biến tinh thần doanh nghiệp trở thành giá trị định hướng của văn hóa kinh doanh trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Những người nông dân mới mang trong mình tinh thần doanh nghiệp sẽ là những con người có bản lĩnh vững vàng. Họ nhận thức rõ ràng về vị trí, vai trò của họ làm chủ thể để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thành công. Họ cũng chính là người trực tiếp xây dựng và phát triển văn hóa kinh doanh trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời, họ cũng là người trực tiếp bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống, để làng quê lưu giữ mãi bản sắc làng quê.
Những yếu tố tác động đến việc khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của nông dân Việt Nam
Những yếu tố khách quan
Một là, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu cho nên thách thức trực tiếp và lâu dài đến sản xuất nông nghiệp là tác động của biến đổi khí hậu. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu. Mặt khác, biến động thời tiết ngày càng cực đoan, bất thường, khó lường, khó kiểm soát; các nhà khoa học cũng dự báo các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung sẽ bị hạn nhiều hơn; số đợt không khí lạnh, rét đậm, rét hại sẽ xuất hiện nhiều hơn ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, bão lũ sẽ gây ảnh hưởng ngày thêm nặng nề trên quy mô cả nước. Biến đổi khí hậu cùng với những khó khăn trong quan hệ chính trị giữa một số quốc gia lưu vực sông Mekong khiến căng thẳng ngày càng tăng về tài nguyên nước, góp phần làm cho hiện tượng hạn hán, xâm nhập mặn nói chung, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long diễn tiến nhanh, mạnh hơn nhiều so với dự báo. Dịch bệnh Covid-19 đang diễn tiến phức tạp trên cả nước, người nông dân cũng như các doanh nghiệp đối tác của nhà nông nhiều nơi bị ảnh hưởng nặng nề.
Hai là, diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp và manh mún, quản lý và sử dụng đất kém hiệu quả. Theo số liệu thống kê, diện tích bình quân đất nông nghiệp/người của Việt Nam tiếp tục giảm và ở mức thấp của thế giới. Điều đó đã và đang tác động trực tiếp đến những hạn chế trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, khai thác lợi thế theo quy mô, cũng như việc triển khai ứng dụng các mô hình nông nghiệp tiên tiến. Sản xuất nông nghiệp không chỉ gặp khó khăn về quy mô đất sản xuất, mà chất lượng đất ngày càng bị giảm, dẫn đến chất lượng nông sản không đạt hiệu quả cao, năng suất thấp. Do sinh kế truyền thống của người nông dân dựa vào sản xuất nông nghiệp, nghĩa là dựa vào đất, nên nhiều nông dân có tâm lý giữ đất phòng thân, khiến quá trình tích tụ và tập trung đất nông nghiệp khó khăn và chậm chạp. Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp chưa phát triển, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp còn phức tạp, nhiêu khê. Nông dân góp đất có nguy cơ tăng rủi ro hoặc giảm cơ hội nhận được lợi ích tương xứng vì đất được doanh nghiệp định giá thấp, nông dân có cổ phần ít, lợi nhuận không đáng kể, không bảo đảm cuộc sống, không đủ điều kiện để tham gia điều hành doanh nghiệp, và cổ phần ngày càng nhỏ qua mỗi đợt huy động vốn mới.
Ba là, nguồn lực về vốn và con người cho phát triển nông nghiệp còn nhiều bất cập. Sản xuất nông nghiệp nói chung và lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao nói riêng đòi hỏi vốn lớn, tiềm ẩn nhiều rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, thị trường. Tuy nhiên, lượng vốn vay còn hạn chế, khiến các nông hộ chưa thật mạnh dạn đầu tư vào sản xuất. Việc trang bị máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất ở các nông hộ chưa đầy đủ, mức độ trang bị còn thấp nên chưa đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp. Chi phí đầu tư để mua sắm máy móc thiết bị chưa được chú trọng do hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa được coi trọng đúng mức; nhiều bộ, ngành, địa phương, cán bộ và xã hội nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống; hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn không đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Do ít được đào tạo, nên lao động nông nghiệp thiếu kiến thức khoa học, thiếu kiến thức quản trị đồng ruộng, quản trị trang trại; lại thêm hệ thống thông tin thị trường chưa phát triển nên chưa giúp doanh nghiệp và nông dân có quyết định đúng để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao thu nhập cho người nông dân, nên phần lớn nông dân nước ta sản xuất ra sản phẩm hôm nay không biết ngày mai bán cho ai, ở đâu, giá cả thế nào. Đặc biệt, hiện tượng di cư từ nông thôn ra thành thị và xuất khẩu lao động trong những năm qua có xu hướng tăng mạnh. Độ tuổi di cư chủ yếu từ 15 - 39, chiếm phần lớn là đối tượng lao động nên ảnh hưởng đến nguồn lực lao động nông nghiệp, nông thôn.
Bốn là, số hoá nông nghiệp đang trở thành xu hướng mạnh mẽ trên thế giới, mang lại nhiều giá trị thực tiễn, nhưng đa số nông dân Việt Nam chưa tiếp cận lĩnh vực này. Nền sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và vật lý. Việc ứng dụng công nghệ điện toán đám mây cùng Internet kết nối vạn vật đã mở đường cho những hoạt động quản lý nông nghiệp theo hướng hoàn toàn mới. Từ đây sẽ hình thành một nền nông nghiệp chính xác và tự động không cần sự tham gia trực tiếp của con người. Khi đó, người nông dân có thể ứng dụng thiết bị cảm biến để số hóa các yếu tố như: nước, phân, thuốc bảo vệ thực vật, độ ẩm, ánh sáng,… đối với cây trồng hoặc các yếu tố về nhiệt độ, tình trạng sức khỏe, dinh dưỡng,… cho từng vật nuôi và chuyển nó vào các thiết bị kết nối Intenet như máy tính, điện thoại di động. Họ có thể đi bất cứ đâu nhưng vẫn biết rõ tình hình trang trại và có thể điều khiển mọi hoạt động trang trại của họ một cách nhanh chóng và chính xác. Thực tế hiện nay là sự hiểu biết và mức độ áp dụng, làm chủ công nghệ số trong nông nghiệp đối với người nông dân nói riêng còn thấp, chưa chủ động tiếp cận và xây dựng kế hoạch hiện thực hoá về số hoá nông nghiệp. Vì vậy, khả năng tiếp thu công nghệ của nông dân và doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp hiện đang là một khâu yếu trong hệ thống đổi mới sáng tạo nông nghiệp của Việt Nam.
Năm là, yếu tố thị trường nông sản ở nước ta vẫn là một hạn chế lớn, “được mùa mất giá” như là một điệp khúc hàng năm, “giải cứu” như là một lời nguyền theo chu kỳ. Đó là do nông nghiệp nước ta vẫn còn những đặc điểm cố hữu: manh mún, nhỏ lẻ và tự phát, làm cho chuỗi liên kết bị rời rạc, con đường đưa nông sản ra thị trường mong manh, dễ đứt gãy khi có biến cố xảy ra. Các dữ liệu về nguồn cung không được quan tâm tích hợp đầy đủ, chính xác, khoa học, kịp thời trong cùng một thời điểm, một mùa vụ, ở mọi cấp độ: địa phương, vùng, quốc gia. Thiếu dữ liệu nguồn cung về sản lượng, chủng loại dẫn đến khó khăn trong truy xuất nguồn gốc, làm cho thông tin đầu vào mơ hồ, chỉ mang tính ước lượng. Từ đó dẫn đến sản xuất, tiêu thụ nông sản không có thông tin thị trường. Vì vậy, khi mà sản xuất nông nghiệp thiếu thông tin thị trường đầu vào và đầu ra thì rủi ro mùa vụ, rủi ro cho nông dân, rủi ro cho khâu tiêu thụ và rủi ro cho cả nền kinh tế là rất lớn. Sản xuất nông nghiệp như thế là chỉ dựa vào may rủi của thị trường dễ dẫn đến mất niềm tin và xung đột lợi ích. Mặt khác, việc bán nông sản thô đã trở thành tập quán, thói quen của người nông dân. Do bán thô nên có tâm lý bán nhanh, bán hết vì thế càng bán nhiều giá càng thấp, ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân. Vì vậy, nền nông nghiệp vẫn chưa khắc phục được những yếu kém nội tại, kinh tế nông thôn đang phát triển không đồng đều, thiếu ổn định, mà thực tế “được mùa mất giá”, “giải cứu nông sản” hết cây này sang con khác, hết năm này qua năm khác là thí dụ điển hình, là minh chứng của một nền sản xuất chưa bền vững, rủi ro cao, giá cả của đầu ra nông sản bấp bênh, sự thua thiệt thường rơi vào người sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ.
Các yếu tố khách quan nói trên cơ bản tác động theo hướng cản trở việc khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của người nông dân.
Những yếu tố chủ quan
Một là, nhận thức của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính trị về vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa đầy đủ, đặc biệt, nhận thức về vai trò chủ thể của giai cấp Nông dân, người nông dân chưa sâu sắc và toàn diện. Công tác tuyên truyền vận động nông dân có nơi, có lúc còn chưa tốt; chưa thể chế hóa rõ và thực hiện tốt phương châm “nông dân là chủ thể”. Mặt khác, từ hạn chế của văn hóa tiểu nông, nhận thức của người nông dân về vị trí, vai trò là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn còn nhiều bất cập. Đây là vấn đề cản trở lớn cho việc khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp, tư duy hành động, trong việc phát huy quyền làm chủ của người nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Hai là, chính sách pháp luật về đất đai trong lĩnh vực nông nghiệp chậm được đổi mới, nông dân khó tiếp cận, chưa đủ động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho việc tập trung đất đai hình thành nên sản xuất lớn trên diện rộng, chưa đáp ứng đầy đủ mong muốn của nông dân khi bị thu hồi đất; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời, như: người nông dân mong muốn tăng thời hạn giao đất, tăng hoặc bỏ hạn mức nhận chuyển giao đất nông nghiệp, định giá quyền sử dụng đất sát với giá thị trường hoặc được miễn giảm thuế khi nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, được bảo đảm sinh kế, việc làm khi đất bị thu hồi, chính sách hỗ trợ các cá nhân đăng ký làm trang trại, gia trại tích tụ đất nông nghiệp, hỗ trợ hợp tác xã thuê đất nông nghiệp của các hộ nông dân…
Ba là, mô hình sản xuất trong nông nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là hộ nông dân nhưng chậm đổi mới, quy mô sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, chủ yếu dựa vào thiên nhiên là chính, nên nguy cơ suy thoái, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường ngày càng tăng. Các nông hộ chưa chú trọng đầu tư nâng cao giá trị, tìm kiếm thị trường, chỉ sản xuất cái gì mình có mà không theo tín hiệu của thị trường nên thường rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối khắc nghiệt của quy luật thị trường. Liên kết ngang trong sản xuất kinh doanh giữa nông dân với nông dân để nâng cao lợi thế chưa được phát huy do chưa thể hiện được tính thiết thực với nông dân. Mô hình kinh tế tập thể chủ yếu là hợp tác xã cũng chậm đổi mới, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, tốc độ tăng trưởng chậm, thiếu ổn định; năng lực nội tại còn yếu, chưa tiếp cận được vốn vay của các tổ chức tín dụng, chậm tái cơ cấu hoạt động sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị. Các hợp tác xã còn kém hiệu quả trong việc cung cấp đầu vào và lo đầu ra nên trên thực tế không mấy hấp dẫn các hộ nông dân và đóng góp vào phát triển kinh tế nông thôn còn rất hạn chế. Sự liên kết, hợp tác giữa các hợp tác xã với nhau và với doanh nghiệp còn hạn chế, phần lớn các hợp tác xã có quy mô nhỏ, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường; đội ngũ cán bộ quản lý được đào tạo bài bản còn hạn chế, cơ sở vật chất còn khó khăn như nhà xưởng, khu sơ chế nông sản, kho bảo quản nông sản.
Bốn là, chất lượng cuộc sống của nông dân ở nhiều vùng nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, mức sống vẫn có sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm dân cư giàu và nghèo, giữa các vùng. Thiếu việc làm cho người lao động mặc dù sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đem lại sự đa dạng hoá việc làm, nguồn thu cho người lao động, nhưng tình trạng người lao động thiếu việc làm lại là hiện tượng phổ biến ở hầu hết các vùng nông thôn Việt Nam. Do không đủ việc làm, phần lớn thanh niên đến độ tuổi lao động đều đi ra ngoài kiếm sống, tình trạng ly nông kéo theo ly hương, cơ cấu dân số mất cân đối nghiêm trọng. Mặt khác, người nông dân Việt Nam, do đặc điểm của lối sống, xã hội ở nông thôn, vốn rất thụ động, chưa thích nghi ngay được với sự thay đổi này. Tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai kéo dài, người dân ngăn cản các nhà đầu tư, tố cáo về bồi thường giải phóng mặt bằng có xu hướng gia tăng. Tâm lý mất ruộng, mất cái quyền làm chủ mà bao đời nay họ được hưởng tạo nên sự hoang mang, lo lắng cho hiện tại và tương lai và cả sự bất bình nhất định. Những giá trị của văn hoá làng quê ngày càng mờ nhạt. Tình trạng ô nhiễm môi trường sống đang là vấn đề bức xúc, ý thức của người dân trong bảo vệ môi trường, bảo vệ cuộc sống của chính mình còn rất hạn chế.
Năm là, vai trò của các cấp Hội Nông dân Việt Nam trong việc khơi dậy và phát huy tinh thần doanh nghiệp của nông dân còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho nông dân nhìn chung chưa đi vào chiều sâu, chưa làm chuyển biến nhận thức của một bộ phận nông dân trong việc khắc phục khó khăn, nỗ lực vươn lên, vẫn còn một bộ phận nông dân trông chờ, ỷ lại, chưa tích cực thi đua sản xuất, khai thác tiềm năng, thế mạnh nông nghiệp của địa phương mình để phát triển sản xuất, xóa bỏ đói nghèo, vươn lên làm giàu. Hoạt động hỗ trợ người nông dân khởi nghiệp còn hạn chế, chưa giúp nông dân hoàn thiện những ý tưởng kinh doanh mới và tìm kiếm cơ hội đầu tư, từ đó ươm mầm thế hệ doanh nhân nông nghiệp trong thời kỳ hội nhập còn nhiều khó khăn.
Việc hình thành các doanh nhân, doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại... từ các chủ thể là nông dân đều đơn lẻ, tự phát, hạn chế về số lượng và chất lượng, chưa có sự liên kết để nhân lên sức mạnh, mở rộng qui mô và nâng cao lợi thế cạnh tranh. Việc xây dựng và tổ chức nhân rộng mô hình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi còn lúng túng và thiếu nguồn lực. Nhiều hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi quy mô còn nhỏ, phương thức sản xuất cá thể, tự phát; trình độ khoa học - kỹ thuật và quản lý còn yếu; chưa coi trọng các yếu tố liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường trong sản xuất, kinh doanh dẫn đến hậu quả chất lượng sản phẩm chưa đạt yêu cầu, thiếu sức cạnh tranh trên thị trường; chưa thể hiện rõ nét vai trò đoàn kết giúp nhau trong sản xuất và đời sống.
Tài liệu tham khảo:
(1), (2). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 124; 124 -125.
Xem: http://hdll.vn: Xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh, giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045