Cần sớm sửa đổi chính sách về vật tư nông nghiệp hợp với thực tế
Vẫn còn lãng phí trong sử dụng vật tư nông nghiệp
Theo ông Nguyễn Trí Ngọc - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, hiện nay là nông dân sử dụng vật tư nông nghiệp chưa hợp lý, dẫn đến lãng phí, đẩy giá thành sản xuất lên cao. Hiện đang có một nghịch lý: Trong khi chúng ta đang tập trung khuyến cáo và nông dân đang nỗ lực tuân thủ các quy trình canh tác VietGAP, GlobalGAP để tạo ra nông sản xanh, an toàn đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe nhất của thế giới, thì vật tư nông nghiệp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp lại rất bát nháo về chất lượng. Tình trạng phân bón, thuốc BVTV kém chất lượng vẫn được bán phổ biến trên thị trường các vùng nông thôn, điều đó dẫn đến nhiều sản phẩm nông sản không đảm bảo chất lượng, nhất là phục vụ xuất khẩu.
Trong khi đó, chế tài xử phạt các vi phạm về sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về vật tư nông nghiệp trong thực tế sản xuất, quản lý chưa nhiều. Nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị và kinh phí phục vụ công tác quản ký vật tư nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng vật tư nông nghiệp giả, kém chất lượng, hết hạn sử dụng, vi phạm nhãn mác, việc sử dụng hóa chất, các chất kích thích sinh trưởng vượt mức cho phép vẫn còn diễn ra, rất khó chấm dứt.
Bên cạnh đó, hiện nay, trách nhiệm quản lý vật tư nông nghiệp giữa các cơ quan chưa được quy định rõ ràng, thống nhất trong một văn bản pháp luật cụ thể, mà nằm tản mát ở nhiều văn bản, dẫn đến khó khăn khi thực thi nhiệm vụ.
Liên quan đến vấn đề xuất khẩu nông sản, TS. Nguyễn Quốc Việt (Viện Nghiên cứ Kinh tế và Chính sách cho biết, Việt Nam có khoảng 40 loại trái cây, trong đó 27 loại có giá trị thương mại. Hiện nay, Việt Nam dù có lợi thế cạnh tranh cao trong sản xuất nhiều loại trái cây nhưng giá trị xuất khẩu các mặt hàng này vẫn còn khiêm tốn. Một trong những lý do chính cho tình trạng này nằm ở tiêu chuẩn chất lượng khắt khe của các nước nhập khẩu hoa quả và các yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm. Một số nhà nhập khẩu như Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản, New Zealand yêu cầu trái cây cần phải có giấy phép nhập khẩu để có thể tiếp cận thị trường của họ. Tuy nhiên, ngay cả các sản phẩm có giấy phép nhập khẩu vẫn có thể bị từ chối nếu không đáp ứng tất cả các yêu cầu do nước nhập khẩu đặt ra. Nguyên nhân là do trong quá trình sản xuất các sản phẩm nông sản đã vi phạm một số quy định tiêu chuẩn chất lượng, kiểm dịch hoặc các yêu cầu về an toàn thực phẩm.
Sớm sửa đổi chính sách thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với phân bón
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xuất khẩu vật tư nông nghiệp trong tháng 8/2023 đem về 207 triệu USD, tăng 13,3% so với tháng 8/2022. Trong khi đó, nhập khẩu nhóm ngành hàng này trong 8 tháng tiêu tốn 4,72 tỷ USD, giảm 12,8% so với cùng kỳ năm 2022. Như vậy, xét về nhóm các mặt hàng vật tư nông nghiệp, đang nhập siêu tới 3,4 tỷ USD.
Trước thực trạng trên, ông Nguyễn Trí Ngọc khuyến nghị thúc đẩy để tăng sản xuất vật tư nông nghiệp trong nước, giảm giá bán tới tay người nông dân. Đồng thời, các đơn vị sản xuất và kinh doanh phân bón uy tín trong nước nỗ lực sản xuất và cung ứng tối đa ra thị trường các sản phẩm phân bón chất lượng cao nhất.
Cùng với đó, cần sớm sửa đổi chính sách thuế giá trị gia tăng với mặt hàng phân bón tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 để hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân.
Theo Luật số 71/2014/QH13, phân bón là đối tượng không chịu thuế VAT. Theo phản ánh của doanh nghiệp, điều này dẫn đến nhiều bất cập. Cụ thể, Việt Nam nhập khẩu tương đối nhiều phân bón từ nước ngoài. Phần lớn các nước này đưa phân bón vào diện chịu thuế VAT nên doanh nghiệp của họ được hoàn thuế đầu vào khi xuất khẩu sang Việt Nam. Mặt khác, phân bón nhập khẩu vào Việt Nam lại không phải chịu thuế VAT tại khâu nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp nước ngoài có điều kiện hạ giá bán và cạnh tranh không công bằng với phân bón sản xuất trong nước.
Trong khi đó, doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước lại gặp nhiều khó khăn. Do phân bón không thuộc diện chịu thuế VAT nên các doanh nghiệp không được kê khai, khấu trừ thuế VAT đầu vào mà phải tính vào chi phí sản phẩm. Điều này khiến giá thành sản phẩm tăng 5 - 8%, bất lợi trong cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu cùng loại; đồng thời không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định để tạo ra sản phẩm chất lượng cao.
Về phía Nhà nước cũng mất nguồn thu ngân sách do không thu được thuế VAT ở khâu nhập khẩu với phân bón trong khi thuế nhập khẩu thì vốn rất thấp hoặc đã được đưa về mức 0%. Còn nông dân phải mua phân bón với giá cao do các nhà sản xuất trong nước đã đẩy một phần chi phí thuế vào giá thành sản phẩm - nghĩa là mục tiêu giảm giá phân bón để hỗ trợ nông dân không đạt được.
Liên quan đến vấn đề sửa đổi thuế VAT, ông Phùng Hà – Phó Chủ tịch Kiêm Tổng thư ký Hiệp hội phân bón Việt Nam cũng kiến nghị nên sửa đổi Luật 71, phần liên quan đến phân bón bằng cách chuyển phân bón từ mặt hàng chịu thuế VAT sang mặt hàng chịu thuế VAT ở mức 5%. Đồng thời, các cấp chính quyền cần xem xét sửa đổi Nghị định 26 về thuế suất thuế xuất khẩu phân bón theo nguyên tắc: Áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu 5% đối với loại phân bón trong nước chưa sản xuất được hoặc không đáp ứng đủ nhu cầu, phải giữ lại cho tiêu dùng trong nước và mức thuế suất thuế xuất khẩu 0% đối với loại phân bón trong nước đã sản xuất đủ hoặc dư thừa”.
Tại hội thảo, các chuyên gia cũng kiến nghị các cơ quan liên quan có chính sách, giải pháp tăng cường sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ để giảm chi phí sản xuất, đồng thời giúp bảo vệ đất, nâng cao chất lượng sản phẩm.