Chùa Quán Sứ một trong những ngôi chùa linh thiêng bậc nhất đất Hà Thành
Ngôi cổ tự được hình thành từ hoạt động ngoại giao
Theo sử sách, chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15 ở địa phận thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương cũ. Trước khi chùa được xây, nơi đây đã có một số gian nhà tranh được dùng làm chỗ tế thần cầu an, gọi là xóm An Tập.
Về tổng quan, kiến trúc chùa Quán Sứ là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.
Vào thời vua Lê Thế Tông (1573 – 1599), do các nước lân bang là Chiêm Thành và Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống Việt Nam, triều đình đã cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến kinh thành Thăng Long. Vì sứ thần các nước này theo đạo Phật nên một ngôi chùa đã được dựng trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Theo các biến động của thời cuộc, nhà Quán Sứ không còn, nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của người dân, được gọi là chùa Quán Sứ.
Vào đầu thời Nguyễn, do đồn Hậu Quân được mở gần đó nên chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn Hậu Quân rút đi chùa lại được trả lại cho dân làng. Năm 1934, khi Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở Trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng.
Ban thờ Thiền sư Không Lộ
Tam quan của chùa có ba tầng mái, nằm giữa là lầu chuông. Tòa chính điện nằm trên nền cao, hình vuông, xung quanh có hành lang. Điện Phật của chùa Quán Sứ được bài trí tôn nghiêm, các pho tượng khá lớn và được thếp vàng lộng lẫy. Tầng cao nhất đặt tượng Tam thế Phật. Tầng kế tiếp là tượng Phật A-di-đà, hai bên là tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Dưới đó là tượng Phật Thích ca, hai bên là A-nan-đà và Ca-diếp.
Xá Lợi đức Phật và chư vị Thánh Tăng được thờ tại chùa Quán Sư
Nhà thờ Tổ nằm phía sau, nối với chính điện bằng hai dãy cầu thang. Đây là nơi thờ Lịch Đại Tổ Sư của Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra chùa còn có gian thờ Thiền sư Minh Không và một số nhân vật lịch sử khác... Đặc biệt, nhân Đại lễ Phật Đản lần thứ 2594 (PL 2514) ngày 8 tháng 4 năm Tân Mão (13/5/1951), chùa Quán Sứ - ngôi chùa đầu tiên - đã tổ chức lễ Thượng Kỳ lá cờ Phật giáo thế giới - lá cờ được Hòa thượng Thích Tố Liên mang về từ Colombo, Sri Lanka trong hội nghị thành lập Hội Liên hữu Phật giáo thế giới (25/5/1950-08/6/1950).
Bức tượng như người thật
Gian Quan âm chùa Quán Sứ (Hà Nội) đang trưng bày pho tượng Đại Trưởng lão Hoà thượng Thích Thanh Tứ, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, với kích cỡ như người thật. Pho tượng được chế tác tại Thái Lan theo tỷ lệ 1:1 với người thật. Các nghệ nhân Thái Lan đã dựa vào những bức ảnh có kích thước bằng với Hòa Thượng Thích Thanh Tứ lúc còn sinh thời để đắp cốt đất. Khi có cốt đất ưng ý thì sau đó mới phủ một lớp nhựa composite bóng lên trên. Bước cuối cùng là họ đắp sáp hóa học, chờ trong khoảng 12 giờ sáp sẽ khô lại, bỏ cốt đất đi. Sau đó, các nghệ nhân bắt đầu chỉnh sửa các chi tiết cho tượng. Đặc biệt, những sợi tóc trên pho tượng đều là tóc thật của Hòa thượng Thích Thanh Tứ khi còn sống. Riêng phần làm tóc, những người thợ ở Thái Lan đã phải lấy kim để gắn từng sợi tóc, để bức tượng giống người thật nhất. Chính nhờ việc đó mà mỗi khi đứng trước bức tượng nhiều Phật tử đều có cảm giác như Đại Trưởng lão đang hiện hữu ngay trước mắt.
Đại Trưởng lão Hoà thượng Thích Thanh Tứ, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Đại Trưởng lão Hoà thượng Thích Thanh Tứ, thế danh là Trần Văn Long, sinh năm 1927 tại thôn Miêu Nha, xã Song Mai, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo. Ông là con thứ ba của cụ ông Trần Văn Đáo và cụ bà Nguyễn Thị Trỏ.
Năm lên 3 tuổi, Hòa thượng mồ côi mẹ và được cha nuôi dưỡng. Với tấm lòng hướng về Phật pháp, hàng ngày cha con lên chùa làng để làm công quả tích phúc tạo duyên, nhờ đó mà Hòa thượng đã sớm có duyên với Phật pháp. Năm lên 6 tuổi, ông được Ni Trưởng Thích Đàm Ân trụ trì chùa Nho Lâm, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên nhận về nuôi và cho đi học tại các trường trong vùng.
Năm lên 12 tuổi, Ni Trưởng Thích Đàm Ân cho đến thụ giáo Hòa thượng Thích Thanh Hồ, trụ trì chùa Đống Long (xã Hùng An, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên). Với đạo hạnh và trí tuệ thông minh sẵn có, Hòa thượng đã được thụ giới Sadi (10 giới trong đạo Phật – PV) năm 1939. Tới năm 1947, Hòa thượng được thụ Đại giới Tỷ khiêu tại chùa Đống Long do Tổ đình chùa Pháp Quang (thôn Thọ Ngãi, xã Tân Minh, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ nay là thành phố Hà Nội tổ chức).
Thấm nhuần tư tưởng: "Phật pháp bất ly thế gian giác" với truyền thống yêu nước "Hộ quốc an dân" của Phật giáo Việt Nam suốt 2000 năm hiện diện và đồng hành với dân tộc, Hòa thượng đã sớm giác ngộ Cách mạng, tích cực tham gia hoạt động bí mật trong lòng địch, ủng hộ các phong trào Cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Việt Minh. Hòa thượng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam và tra tấn, giải qua nhiều trại giam, nhà tù. Sau khi ra tù, Hòa thượng lại tiếp tục tham gia hoạt động cho Việt Minh cho đến khi người Pháp rút khỏi Việt Nam.
Đại Trưởng lão Hoà thượng Thích Thanh Tứ được xem là có nhiều đóng góp đối với Hội Phật giáo Cứu quốc trong Kháng chiến chống Pháp, cũng như đối với việc phục hồi các hoạt động Phật sự của Phật giáo miền Bắc sau năm 1954, vận động thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ông cũng là thành viên tích cực vận động dân chúng, tín đồ tham gia hoạt động xã hội, phục hồi kinh tế, ủng hộ chủ trương của chính phủ.
Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn có nhiều đóng góp vào việc giữ gìn và tôn tạo nhiều di tích lịch sử văn hóa Phật giáo tại Việt Nam, giữ gìn truyền thống và bản sắc dân tộc, hạn chế hủ tục. Với cương vị Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam. Ông có nhiều công lao trong việc đào tạo nhiều thế hệ tăng sĩ Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam đã trao tặng cho Hòa thượng Thích Thanh Tứ nhiều danh hiệu cao quý cho Sư như: Huân chương Hồ Chí Minh (12/10/ 2011); Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, hạng Nhì; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Đại đoàn kết dân tộc và nhiều danh hiệu khác.
Câu đối của Giáo sư Vũ Khiêu tặng Đại Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ:
Chính Đại Quang Minh Tâm Hướng Phật
Từ Bi Hỷ Xả Chí Ưu Dân.