Đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp phải theo sát chuỗi giá trị
Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, hiện có 12 cơ sở đào tạo đại học và sau đại học, 28 trường cao đẳng và 2 trường cán bộ quản lý. Đến nay, các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp thuộc Bộ NN&PTNT đã hình thành mạng lưới các trường, các đơn vị đào tạo phân bố rộng trên cả nước.
Tại khu vực phía Nam, có nhiều trường đào tạo về nông, lâm, thủy sản như Trường đại học Cần Thơ, Trường đại học Nông Lâm TP. HCM, Trường đại học An Giang, Phân hiệu Trường đại học Lâm nghiệp, Phân hiệu Trường đại học Thủy lợi… Giai đoạn 2016-2022, các trường cao đẳng thuộc Bộ NN&PTNT đã đào tạo lao động cho các tỉnh, thành phía Nam với các trình độ: cao đẳng gần 15.000 người; trung cấp hơn 41.000 người; sơ cấp và dạy nghề thường xuyên gần 53.000 người.
Ngoài ra, thực hiện chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, các địa phương trong khu vực phía Nam đã đào tạo hơn 3.000 người có trình độ cao đẳng, 11.700 người trình độ trung cấp, 138.150 người có trình độ sơ cấp. Tuy nhiên, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngành Nông nghiệp đang đứng trước những khó khăn, thách thức.
Theo GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam: Nguồn nhân lực được coi là một trong các yếu tố quyết định đảm bảo cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sau 30 năm đổi mới đã mang lại cho đất nước một diện mạo với sự phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội ổn định. Tuy nhiên, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp cận nền kinh tế tri thức hiện nay, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững.
Lao động nông lâm thủy sản có xu hướng giảm nhanh trong thời gian qua. Giai đoạn 2011-2020, lao động nông lâm thủy sản của Vùng Đông Nam Bộ, giảm mạnh từ 1,24 triệu người năm 2011 còn 778 nghìn năm 2020, mỗi năm giảm trung bình 46,7 nghìn người/năm (tốc độ giảm bình quân 3.75% mỗi năm). Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đã giảm từ 10,2 triệu người xuống 9,36 triệu người (mức giảm 7,2% tương ứng với 729.4 nghìn người). Nguyên nhân chủ yếu là do lao động đã di cư ra khỏi vùng để tìm kiếm việc làm ở các khu công nghiệp, đô thị của các vùng khác.
Chất lượng của lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản nhìn chung còn thấp. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp nghề trở lên trong ngành nông, lâm thủy sản chiếm tỷ lệ thấp, cụ thể là chỉ là 7,4% đối với vùng Đông Nam Bộ và 2.21% đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phần lớn lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản trong vùng vẫn còn là lao động phổ thông, giản đơn, lao động làm việc theo kinh nghiệm, thời vụ, thiếu lao động có tay nghề cao.
Lao động còn thiếu hụt kỹ năng và năng lực hành nghề, tỷ lệ lao động chưa được công nhận có kỹ năng nghề quốc gia còn chiếm tỷ lệ lớn. Nhiều học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường không kiếm được việc làm phù hợp với chuyên môn đào tạo, do chưa đáp ứng yêu cầu nhà tuyển dụng và thị trường lao động.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á; chỉ số cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế xếp thứ 73/133 quốc gia được xếp hạng.
Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, giai đoạn 2005 - 2020, giá trị sản xuất nông nghiệp vùng Đông Nam bộ tiếp tục phát triển tốc độ khá, tăng bình quân 4,63%/năm. Đông Nam bộ đứng đầu cả nước về sản lượng cao su, điều, lợn... tỷ lệ che phủ rừng của vùng 19,42%. Đến hết năm 2021, vùng Đông Nam bộ đã có 368/425 xã (86,59%) đạt chuẩn nông thôn mới (tăng 44,21% so với năm 2015), là vùng có tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đứng thứ 2 trong cả nước, cao hơn nhiều so với tỷ lệ chung của cả nước.
Đối với ĐBSCL, đây là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất cả nước, hàng năm sản xuất trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% các loại trái cây, 95% sản lượng gạo xuất khẩu. Vùng đất này được ca ngợi là “vựa lúa”, “vựa trái cây” và “vựa tôm - cá” của Việt Nam, với đóng góp trung bình 33,54% GDP nông nghiệp cả nước và 30% GDP chung của vùng. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP nông nghiệp ĐBSCL giai đoạn 2004 - 2020 đạt 4,6% cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nước (3,76%).
Tại Hội nghị các đại biểu đều cho rằng, tương phản với sự giảm sút về số lượng người học là nhu cầu về nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn rất lớn. Trong 5 năm gần đây, hầu hết các doanh nghiệp đều đang trong tình trạng thiếu hụt trầm trọng nhân lực trình độ đại học.
Chia sẻ tại Hội nghị, ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết: Thời gian tới Bộ NN&PTNT sẽ huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và xã hội phục vụ việc đào tạo nhân lực chất lượng cao và xây dựng đề án thu hút nhân lực chất lượng cao làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đồng thời, đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp phải bám sát theo chuỗi giá trị. Đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp không chỉ để làm thuê cho doanh nghiệp mà còn phải tạo ra những người làm chủ. Giáo dục, đào tạo phải gắn liền nhu cầu cuộc sống, chính là cuộc sống chứ không phải chuẩn bị cho cuộc sống. Khởi nghiệp nông nghiệp không nên làm theo phong trào, không nên coi đây là “sân chơi” chơi mà cần phải làm thật, tạo ra hiệu quả và giá trị thật.
Không phải chỉ học nông nghiệp đơn thuần mới làm nông nghiệp được. Trong nền kinh tế ngày nay các ngành, môn học cần có sự liên kết với nhau. Ví dụ học du lịch, học quản trị kinh doanh, học thương mại, cơ khí... cũng làm nông nghiệp được, thậm chí là làm rất tốt, đáp ứng được nhiều nhu cầu của nền kinh tế nông nghiệp.
Trong bối cảnh hiện nay khi ba công nghệ nền tảng chủ đạo: Tự động hóa, internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo đã và đang tạo ra nhiều thách thức cho nguồn nhân lực. Điều này đòi hỏi trình độ nguồn nhân lực phải bắt kịp với xu thế phát triển của ngành Công nghệ để đáp ứng sự thay đổi mạnh mẽ về phân bố nguồn lực sản xuất, cách thức sản xuất, quản lý và tiêu dùng.