Công tác Hội

Phát huy vai trò của Hội trong việc thúc đẩy nông dân ứng dụng công nghệ cao

Th.s Nguyễn Xuân Định - 07:02 22/06/2022 GMT+7
(Tapchinongthonmoi.vn) - Lời toà soạn: Trao đổi về vai trò của Hội đối với thúc đẩy nông dân ứng dụng công nghệ cao vào phát triển nông nghiệp, ông Nguyễn Xuân Định – Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (T.Ư Hội NDVN) gửi tới Tạp chí Nông thôn mới bài viết có tiêu đề “Giải pháp phát huy vai trò của Hội Nông dân Việt Nam thúc đẩy nông dân ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp”. Nội dung bài viết là một phần kết quả Đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ do T.Ư Hội NDVN thực hiện giai đoạn 2
Ông Nguyễn Xuân Định - Phó Chủ tịch BCH T.Ư Hội NDVN (thứ 2 từ trái sang) thăm mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội.

Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (NNUDCNC) đang trở thành xu hướng chủ đạo, là chìa khóa thành công của các nước có nền nông nghiệp phát triển và cũng là xu hướng tất yếu cho ngành Nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4(1). Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp hộ gia đình vẫn là chủ yếu, manh mún, nhỏ lẻ, trước sự bùng nổ của công nghệ thông tin; quá trình hội nhập quốc tế đòi hỏi chất lượng nông sản càng cao; cùng với diện tích đất bị thu hẹp do đô thị hóa, do biến đổi khí hậu trong khi dân số gia tăng kéo theo nhu cầu lương thực không ngừng tăng lên… là những thách thức rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam. 

Để từng bước giải quyết vấn đề này, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển NNUDCNC góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa nước ta. Để góp phần thực hiện các chủ trương, chính sách này, trong những năm qua, các cấp Hội đã triển khai nhiều hoạt động để thúc đẩy nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (TBKT), công nghệ cao (CNC), trong đó trọng tâm là các hoạt động sau:

Tích cực tuyên truyền, vận động nông dân dồn điền, đổi thửa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát huy lợi thế của mỗi địa phương, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế; vận động nông dân phát triển kinh tế gia trại, trang trại; liên kết, hợp tác trong sản xuất, tham gia sản xuất theo chuỗi giá trị, chuyển mạnh sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn, ứng dụng TBKT, CNC tạo ra khối lượng nông sản lớn, đồng bộ, chất lượng cao, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm giảm giá thành, tăng giá trị thu nhập.

Các cấp Hội đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành ở Trung ương; các sở, ngành ở địa phương và các viện nghiên cứu, doanh nghiệp tổ chức tập huấn, chuyển giao TBKT, CNC cho trên 31 triệu lượt hội viên, nông dân(2). Hỗ trợ, hướng dẫn nông dân xây dựng trên 33 nghìn mô hình điểm trình diễn(3), từ kết quả của các mô hình, giúp cho các cấp Hội tổ chức cho hội viên, nông dân tham quan học tập để nhân rộng, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Hỗ trợ xây dựng và duy trì hàng trăm “Câu lạc bộ Khoa học kỹ thuật Nhà nông”, tổ chức các cuộc thi “Nhà nông đua tài”, “Sáng tạo kỹ thuật Nhà nông”, chương trình “Tôn vinh Nhà Khoa học của Nhà nông”...(4); đã có hàng trăm sáng kiến, giải pháp kỹ thuật của nông dân, tự sáng chế, tự nghiên cứu được ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất như: Máy làm đất, máy gieo hạt, máy tưới cây, máy bón phân, máy phun thuốc trừ sâu(5)..., góp phần đẩy mạnh ứng dụng TBKT, CNC của nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Phát triển Quỹ Hỗ trợ nông dân (HTND), đồng thời phối hợp với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng tạo vốn hỗ trợ hội viên, nông dân phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD). Nguồn vốn Quỹ HTND các cấp từ năm 2008 đến nay đã giúp xây dựng được hàng trăm nghìn mô hình SXKD với trên 671.000 lượt hộ nông dân tham gia. Nhiều dự án vay vốn Quỹ HTND Trung ương với quy mô lớn, mức vay cao, hiệu quả, trở thành những mô hình tiêu biểu điển hình thành công được nhân rộng; Chủ động phối hợp với Ngân hàng NN&PTNT thực hiện tốt thỏa thuận đã ký kết và các ngân hàng thương mại khác triển khai các giải pháp mở rộng tín dụng, hỗ trợ giúp nông dân vay hàng trăm nghìn tỷ đồng. Các nguồn vốn đã giúp nông dân đầu tư, mở rộng sản xuất, ứng dụng CNC trong SXKD. 

T.Ư Hội đã chủ động ký kết các chương trình phối hợp với các tổ chức, tập đoàn nông nghiệp lớn; chỉ đạo Hội ND các tỉnh, thành phố tích cực, chủ động, phối hợp và liên kết với các đơn vị, doanh nghiệp(6) bảo lãnh, cung ứng vật tư đầu vào theo hình thức trả chậm không tính lãi(7); tích cực triển khai phối hợp với các doanh nghiệp chế tạo máy nông nghiệp(8), chủ động đề xuất với cấp ủy, chính quyền có chính sách hỗ trợ lãi suất cho nông dân mua máy nông nghiệp, qua đó đã giúp nông dân đầu tư, mở rộng SXKD.
T.Ư Hội NDVN phối hợp với các bộ, ngành, doanh nghiệp, nhà khoa học(9) từng bước thực hiện kết nối thông tin giá cả vật tư nông nghiệp, hàng hóa nông sản, tình hình dịch, bệnh cây trồng, vật nuôi; tham gia kiểm tra, giám sát việc sản xuất phân bón và một số loại vật tư nông nghiệp; tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho nông dân sử dụng và truy cập Internet để khai thác thông tin về thị trường, giá cả, quy trình sản xuất mới tiên tiến phục vụ SXKD(10). Phối hợp với các doanh nghiệp, các địa phương tổ chức 35 Hội chợ nông nghiệp - thương mại cấp khu vực, Festival nông nghiệp với hàng nghìn gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông nghiệp tại các tỉnh, thành phố; hàng năm tổ chức Lễ tôn vinh sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu(11). Hội Nông dân các tỉnh, thành phố chủ trì tổ chức và phối hợp tổ chức được 5.929 hội chợ, triển lãm, giới thiệu nông sản, xúc tiến thương mại.  

Mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

Ngoài ra, Hội ND các tỉnh, thành phố xây dựng, duy trì, phát triển hệ thống “Cửa hàng Nông sản an toàn” với 726 cửa hàng; bên cạnh đó, cửa hàng còn liên kết với nhiều địa phương trong cả nước để giới thiệu tới khách hàng những mặt hàng nông sản đặc trưng của các vùng miền; chủ động triển khai nhiều chương trình hỗ trợ nông dân xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu nông sản; tích cực tổ chức, tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại để hỗ trợ nông dân đẩy mạnh giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm(12).

Ban Thường vụ T.Ư Hội NDVN đã xây dựng Đề án “Hỗ trợ nông dân khởi nghiệp sáng tạo giai đoạn 2020 - 2025”; tổ chức một số hoạt động hướng dẫn, hỗ trợ nông dân khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp thông qua tổ chức các cuộc cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học quốc gia, quốc tế về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn như: Hội nghị Nông dân Khởi nghiệp năm 2017; Diễn đàn Nông dân Quốc gia, với chủ đề “Hãy sẵn sàng với nông nghiệp 4.0” năm 2018; Hội nghị “Bình chọn và vinh danh Nhà nông sáng tạo”; tổ chức các khóa đào tạo cho hàng trăm lượt học viên về Khởi sự kinh doanh và Quản trị kinh doanh . 

 Hội ND các cấp đã phối hợp và trực tiếp tổ chức dạy nghề trình độ sơ cấp và dạy nghề thường xuyên cho hơn 2 triệu lượt nông dân; trong đó trực tiếp dạy nghề và cấp chứng chỉ, giấy chứng nhận cho 233.178 lượt người; phối hợp tổ chức dạy nghề cho 1,8 triệu lượt người. Tỷ lệ nông dân sau học nghề có việc làm và thu nhập ổn định trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ đạt trên 80%. 
Các cấp Hội đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý cho hội viên, nông dân với nhiều hình thức đa dạng, phong phú như: Tư vấn pháp luật trực tiếp, bằng văn bản, qua Website, qua hệ thống báo chí của Hội, xây dựng mô hình điểm, Câu lạc bộ “Nông dân với pháp luật”, tổ chức Cuộc thi tìm hiểu pháp luật, trợ giúp pháp lý lưu động đến hội viên, nông dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc... giúp nông dân giải tỏa bức xúc, mâu thuẫn trong tranh chấp dân sự nhất là lĩnh vực đất đai, thu hồi, bồi thường về đất . 

Thông qua các hoạt động trên, nhận thức của cán bộ, hội viên, nông dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ứng dụng TBKT, CNC vào  SXKD có nhiều chuyển biến rõ rệt, trình độ SXKD của nông dân được nâng lên, phong trào ứng dụng TBKT, CNC vào sản xuất và đời sống đã phát triển rộng khắp, đã xuất hiện nhiều mô hình SXKD ứng dụng TBKT, CNC đạt hiệu quả cao được tổng kết rút kinh nghiệm và nhân rộng.

Tuy nhiên, hoạt động thúc đẩy nông dân UDCNC trong SXKD nông nghiệp của các cấp Hội vẫn còn hạn chế. Nội dung, phương thức tuyên truyền chưa đa dạng, phong phú; chưa khai thác được thế mạnh của tổ chức Hội, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0, nhất là công nghệ thông tin. Việc đào tạo nghề, tập huấn chuyển giao TBKT, CNC còn dàn trải, chưa trọng tâm, nặng về lý thuyết, ít về thực hành. Việc hỗ trợ nông dân xây dựng mô hình UDCNC mới chủ yếu triển khai ở từng khâu; chưa thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm. Nguồn vốn hỗ trợ cho nông dân vay ứng dụng CNC chưa nhiều. Hoạt động dịch vụ hỗ trợ nông dân về chuyển giao TBKT, vật tư đầu vào, nhất là tiêu thụ sản phẩm còn rất hạn chế. Hệ thống các Trung tâm Hỗ trợ nông dân chưa phát huy được vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, chưa khai thác hiệu quả cơ sở vật chất hiện có để hỗ trợ nông dân ứng dụng TBKT, CNC trong SXKD.

Với những kết quả đạt được nêu trên, mặc dù còn một số hạn chế, kết quả khảo sát được triển khai tại 5 tỉnh, thành phố là Sơn La, Hà Nội, Nghệ An, Lâm Đồng và Bạc Liêu cho thấy cán bộ các cơ quan chuyên môn đánh giá rất cao vai trò của Hội NDVN trong thúc đẩy nông dân UDCNC trong SXKD nông nghiệp, nhất là trong tuyền truyền, vận động nông dân UDCNC; đào tạo, tập huấn chuyển TBKT, CNC cho nông dân; xây dựng mô hình NNUDCNC để nông dân tham quan, học tập và nhân rộng; làm cầu nối giữa nhà nông với Nhà nước, nhà khoa học và doanh nghiệp hỗ trợ nông dân UDCNC trong SXKD nông nghiệp. Cụ thể, có 83,07% ý kiến cho rằng Hội NDVN có vai trò quan trọng và rất quan trọng trong tuyên truyền, vận động nông dân ứng dụng CNC, trong đó ý kiến đánh giá vai trò của Hội NDVN rất quan trọng là 39%; 76,93% ý kiến cho rằng Hội DNVN có vai trò quan trọng và rất quan trọng trong tham gia xây dựng mô hình NNUDCNC để nông dân tham quan, học tập và nhân rộng; tương tự đối với việc tham gia tập huấn chuyển giao TBKT, CNC cho nông dân, làm cầu nối giữa Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và doanh nghiệp hỗ trợ nông dân UDCNC lần lượt là 57,01% và 58,93%. Tỉ lệ ý kiến cho rằng vai trò của Hội NDVN trong tham gia xây dựng chính sách về phát triển NNUDCNC và tổ chức các dịch vụ hỗ trợ nông dân UDCNC ở mức bình thường khá cao, lần lượt là 67,13% và 65,69% (Biểu đồ 1). Trong khi đó, tham gia xây dựng cơ chế chính sách, giám sát, phản biện xã hội liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn và tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ và đào tạo nghề là những nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong Nghị quyết số 34-NQ/HNDTW Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành T.Ư Hội NDVN (khóa VI) về ba nhiệm vụ trọng tâm. Đây là điểm Hội NDVN cần tập trung khắc phục trong thời gian tới.

Biểu đồ 1: Ý kiến đánh giá của cán bộ các cơ quan chuyên môn về vai trò của Hội NDVN trong thúc đẩy nông dân UDCNC trong SXKD nông nghiệp.

Mặc dù Đảng, Nhà nước đã ban hành các chủ trương, chính sách phát triển NNUDCNC, các cấp, các ngành, trong đó có Hội NDVN đã chủ động, tích cực vào cuộc, nhưng UDCNC trong SXKD của nông dân còn rất hạn chế do gặp nhiều khó khăn. Kết quả khảo sát cho thấy có 68,70% ý kiến nông dân cho rằng cơ sở hạ tầng không đảm bảo, 47,54% ý kiến cho rằng nguồn nước bị ô nhiễm, nhất là đối với nuôi trồng thủy sản với 92,55% ý kiến, do hệ thống kênh mương phục vụ sản xuất không đảm bảo, nguồn nước bị ô nhiễm, dịch bệnh phát triển gây thiệt hại lớn cho nông dân; 67,31% ý kiến cho biết họ thiếu vốn đầu tư cho SXKD, 47,66% ý kiến cho rằng thiếu kiến thức về CNC. Ngoài ra,  nhiều ý kiến cho rằng công tác quản lý chất lượng vật tư đầu vào, quản lý thị trường tiêu thụ nông sản yếu kém, với tỉ lệ ý kiến lần lượt là 55,15% và59,99%. Có 36,88% cho rằng chính sách hỗ trợ chưa đủ mạnh (Biểu đồ 2)

Biểu đồ 2: Khó khăn của nông dân trong ứng dụng CNC trong SXKD nông nghiệp

Từ thực tiễn trên, để thúc đẩy nông dân UDCNC trong SXKD nông nghiệp góp phần phát triển NNUDCNC, bền vững, hiệu quả góp phần thực hiện cơ cấu lại ngành Nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh nông sản; bảo vệ môi trường, sinh thái; nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an ninh quốc phòng; đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thích ứng với biến đổi khí hậu và kết nối bền vững với chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, trong thời gian tới, Hội NDVN cần tập trung vào những nội dung sau:

Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kịp thời chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là các nội dung liên quan đến phát triển NNUDCNC. Các cấp Hội thường xuyên tuyên truyền sâu rộng tới đông đảo cán bộ, hội viên, nông dân về vai trò của CNC đối phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng; các thông tin, kiến thức về CNC, UDCNC trong SXKD nông nghiệp; các mô hình, điển hình tiên tiến; kinh nghiệm của nông dân trong hoạt động ứng dụng TBKT, CNC vào thực tiễn SXKD. 

Các cấp Hội phát động sâu rộng phong trào thi đua “Nhà nông sáng tạo”; vận động, hướng dẫn, khuyến khích, hỗ trợ để thu hút hội viên, nông dân tích cực tham gia ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ phù hợp với điều kiện thức tế địa phương vào phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững.

Đổi mới nội dung và phương thức tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ, đào tạo nghề và tạo việc làm cho hội viên nông dân. Phối hợp chặt chẽ với bộ, ban, ngành, doanh nghiệp, các cơ quan chuyên môn làm tốt công tác chuyển giao TBKT, CNC thông qua tập huấn và xây dựng các mô hình NNUDCNC để nông dân tham quan học tập và nhân rộng; tổ chức các dịch về vốn, vật tư, máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất; hỗ trợ xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, quảng bá, giới thiệu, kết nối hỗ trợ nông dân tiêu thụ sản phẩm NNUDCNC.

Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm Hỗ trợ nông dân ở Trung ương và các tỉnh, thành phố để làm tốt vai trò cầu nối giữa nông dân, Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp để làm tốt các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ, đào tạo nghề hỗ trợ nông dân UDCNC trong SXKD nông nghiệp.

Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ HTND các cấp; tăng cường phối hợp với Ngân hàng NN&PTNT, Ngân hàng Chính sách Xã hội và các ngân hàng thương mại để tạo vốn cho nông dân gắn với các hoạt động dịch vụ, tư vấn, đào tạo nghề cho hội viên, nông dân nhằm xây dựng các mô hình liên kết, hợp tác SXKD nông nghiệp UDCNC.

Tổ chức các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức, tinh thần về khởi nghiệp cho hội viên, nông dân. Tăng cường công tác bồi dưỡng, tập huấn kiến thức và kỹ năng về khởi nghiệp. Hỗ trợ vay vốn, chuyển giao TBKT, CNC, tổ chức tham quan, trao đổi kinh nghiệm các mô hình hiệu quả; hướng dẫn các hình thức liên kết hợp tác trong phát triển kinh tế; thông tin chính sách, pháp luật, thị trường. 

Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phong trào “Nông dân thi đua SXKD giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”. Trên cơ sở đó lựa chọn những cá nhân tiêu biểu để tuyên truyền, dẫn dắt ứng dụng CNC trong SXKD nông nghiệp. Thành lập các “Câu lạc bộ Nông dân khởi nghiệp”, “Câu lạc bộ Doanh nhân nông thôn”, “Câu lạc bộ Nông dân tỷ phú”, “Câu lạc bộ Nhà khoa học với nông dân“...

Tiếp tục tập trung xây dựng các “Câu lạc bộ khoa học kỹ thuật nhà nông” ở cơ sở, xây dựng các điểm ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển sản xuất cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho hội viên, nông dân. Xây dựng các mô hình ứng dụng và chuyển giao TBKT, CNC đến các chi, tổ hội, câu lạc bộ nông dân; các nông dân sản xuất kinh doanh giỏi; cán bộ khuyến nông tự nguyện…

Chỉ đạo, đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết về xây dựng chi hội, tổ hội nông dân nghề nghiệp; Hướng dẫn cơ sở trong việc lựa chọn, phát huy thế mạnh ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của địa phương để xây dựng chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp phù hợp, đảm bảo theo tiêu chí “5 tự” và “5 cùng” để tạo điều kiện thuận lợi cho ứng dụng CNC và làm tiền đề xây dựng các THT, HTX, thúc đẩy liên kết trong SXKD.

Tăng cường hợp tác với các tổ chức Quốc tế để tranh thủ nguồn lực hỗ trợ nông dân xây dựng mô hình NNUDCNC, đào tạo nâng cao năng lực cho nông dân, tổ chức cho nông dân đi tham quan, nghiên cứu, học tập, giới thiệu, quảng bá và tiêu thụ nông sản UDCNC ở trong và ngoài nước.

Tích cực tham gia xây dựng cơ chế chính sách, giám sát phản biện xã hội các chính sách liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó có các cơ chế, chính sách thúc đẩy nông dân UDCNC trong SXKD nông nghiệp. 

Chú giải
(1) (Đỗ Kim Chung, 2021; Nguyễn Xuân Cường, 2019 & Phạm Văn Hiển, 2014)
(2) Về sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobGAP, theo tiêu chuẩn hữu cơ; cơ khí, điện và các nghề tiểu thủ công nghiệp...
(3) Mô hình về trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP; mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ; mô hình ứng dụng chế phẩm sinh học trong sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản...
(4) Hội ND tỉnh An Giang với mô hình “Bác sĩ nông học”, Hội ND tỉnh Bến Tre với mô hình “Nông dân dạy nông dân”...
(5) Công ty Phân bón Bình Điền, Công ty Phân bón Tiến Nông, Công ty Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao, Công ty Đạm Phú Mỹ, các Nhà máy Chế biến chè, Cà phê, Lúa chất lượng cao...
(6) Từ năm 2004 đến nay Hội NDVN tổ chức 8 lần Cuộc thi Sáng tạo kỹ thuật nhà nông được tổ chức từ cơ sở đã lựa chọn được 498 giải pháp tham dự ở cấp T.Ư.
(7) Từ năm 2008 đến năm 2020 các Trung tâm thuộc Hội ND các tỉnh, thành phố đã cung ứng trên 3.717.571 tấn phân bón trị giá hơn 15.400 tỷ đồng, hơn 156.670 tấn thức ăn chăn nuôi, trên 2 triệu giống cây, trên 2,5 triệu con giống, 97.032 tấn thuốc bảo vệ thực vật…
(8) Phối hợp với Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), các doanh nghiệp chế tạo máy nông nghiệp chuyển giao 31.568 máy móc các loại với số tiền 1.965.749 triệu đồng.
(9) Phối hợp với Bộ NN&PTNT., Bộ Công thương, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí, Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam...
(10) Tổ chức 270.000 lớp tập huấn, hướng dẫn 16,2 triệu nông dân truy cập và sử dụng mạng Internet phục vụ sản xuất, kinh doanh. 
(11) Trong 13 năm qua đã có trên 1.000 sản phẩm được tôn vinh.
(12) Hỗ trợ nông dân tham gia trên 5.900 Hội chợ triển lãm Nông nghiệp - Thương mại; kết nối đưa sản phẩm của nông dân bán tại các Trung tâm thương mại, Siêu thị...; xây dựng Sàn kết nối cung- cầu, 726 cửa hàng và điểm kết nối theo chuỗi giá trị cung- cầu giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm.
(13) Theo nguồn kinh phí của Bộ Kế hoạch & Đầu tư về hỗ trợ đào tạo nhân lực cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa. 
(14) Trong 13 năm, các tỉnh, thành Hội đã phối hợp với ngành Thanh tra, Tư pháp tổ chức tư vấn, trợ giúp pháp lý cho trên 15 triệu lượt cán bộ, hội viên, nông dân và đối tượng chính sách. Các cấp Hội thành lập hơn 6.480 Câu lạc bộ “Nông dân với pháp luật” với trên 185.700 thành viên.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết 26 - NQ/TW của Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn- Hội Nông dân Việt Nam, 2021.
2. Báo cáo Kết quả khảo sát thuộc Đề tài nghiên cứu khoa học của T.Ư Hội NDVN về “Giải pháp thúc đẩy nông dân UDCNC trong SXKD nông nghiệp”.
3. Đỗ Kim Chung (2021). Nông nghiệp CNC: góc nhìn từ sự tiến hóa của nông nghiệp và phát triển của công nghệ. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 19(2),288-300.
4. Nguyễn Xuân Cường (2019). Phát triển nông nghiệp CNC bền vững. Tạp chí Tuyên Giáo. Số 7: 33-36.
5. Phạm Văn Hiển (2014). Phát triển nông nghiệp CNC ở Việt Nam: Kết quả ban đầu và những khó khăn cần tháo gỡ. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 12, 64-70.

 

Tin cùng chuyên mục
Tin khác