Y tế

Nhận biết dấu hiệu trầm cảm ở trẻ

13:03 05/04/2022 GMT+7
Mới đây liên tiếp có các trường hợp trẻ vị thành niên tự sát, theo các chuyên gia y tế thì phần lớn là do các cháu mắc bệnh trầm cảm. TS. BS Đỗ Minh Loan - Phụ trách khoa Sức khỏe vị thành niên – Bệnh viện Nhi Trung ương chia sẻ những dấu hiệu của căn bệnh này ở trẻ.

Ảnh minh hoạ.

Trầm cảm là một rối loạn tâm trạng gây ra cảm giác buồn bã và mất hứng thú. Trầm cảm ảnh hưởng đến cách cảm nhận, suy nghĩ và hành xử và có thể dẫn đến một loạt các vấn đề về cảm xúc và thể chất. Người bị trầm cảm có thể gặp khó khăn khi thực hiện các hoạt động hàng ngày bình thường và đôi khi có thể cảm thấy như thể cuộc sống không đáng sống.

Trầm cảm là vấn đề hay gặp và phổ biến trong giai đoạn phát triển trẻ vị thành niên. Theo số liệu của 1 số nghiên cứu tại Việt nam cho thấy tỉ lệ trẻ vị thành niên bị trầm cảm là 26,3%, trẻ có suy nghĩ về cái chết là 6,3%,  trẻ lập kế hoạch tự tử là 4,6% và trẻ cố gắng tự tử là 5,8%.

Yếu tố gia đình, các sự kiện xảy ra trong cuộc sống, yếu tố cá nhân được coi là một trong những yếu tố có tác động đến trầm cảm vị thành niên.

Các dấu hiệu nhận biết:

- Cảm giác buồn bã, trống rỗng hoặc vô vọng

- Giận dữ, cáu kỉnh hoặc thất vọng chỉ với những vấn đề rất nhỏ

- Mất hứng thú hoặc niềm vui trong hầu hết hoặc tất cả các hoạt động bình thường, chẳng hạn như sở thích hoặc thể thao

- Rối loạn giấc ngủ, bao gồm mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều

- Mệt mỏi vì vậy ngay cả những nhiệm vụ nhỏ cũng phải nỗ lực rất nhiều

- Giảm sự thèm ăn và giảm cân hoặc ngược lại tăng cảm giác thèm ăn và tăng cân

- Lo lắng, kích động hoặc bồn chồn

- Suy nghĩ chậm chạp, kém tập trung

- Cảm giác vô dụng hoặc mặc cảm, cảm giác có tội nhiều hoặc tội không đúng

- Khó suy nghĩ, khó tập trung, khó đưa ra quyết định và ghi nhớ mọi thứ

- Có suy nghĩ về cái chết, ý nghĩ tự tử, cố gắng tự tử hoặc tự tử

- Có các vấn đề về cơ thể không giải thích được như đau lưng hoặc đau đầu

Giáo dục về các phát hiện ý định và hành vi tự sát ở trẻ em dưới mọi hình thức phải được coi trọng. Bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ cao nên được chuyển đến bệnh viện, điều trị nội trú bởi bác sĩ tâm thần nhi. Còn những bệnh nhân có các yếu tố bảo vệ và nguy cơ thấp (ví dụ, một gia đình gần gũi, ấm áp, hỗ trợ lẫn nhau...) có thể được điều trị ngoại trú.

P.V (nguồn BV Nhi T.Ư)

 

Tin cùng chuyên mục
Tin khác