Thảo luận

Phát triển kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp và vai trò chủ thể của nông dân

Trần Quốc Dân(*) - 07:02 08/06/2024 GMT+7
(Tapchinongthonmoi.vn) - Hộ nông dân là một lực lượng sản xuất quan trọng ở nông thôn Việt Nam; Kinh tế hộ nông dân được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, thúc đẩy phát triển từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới. Việc hỗ trợ phát triển kinh tế hộ nông dân để giúp nông dân vươn lên trở thành người sản xuất, kinh doanh giỏi, là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Hội Nông dân Việt Nam.
Mô hình trồng bí thơm của gia đình anh Lê Văn Đạt ở thôn Bản Cảm (xã Cổ Linh, huyện Pác Nặm, Bắc Kạn).

Một số nhận thức chung 

Theo kết quả nghiên cứu của nhiều học giả đều cho rằng kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp (sau đây viết là kinh tế hộ nông dân) là loại hình kinh tế trong nông nghiệp có quy mô gia đình, trong đó các hoạt động chủ yếu dựa vào lao động gia đình. Gia đình là đơn vị tế bào của xã hội, tồn tại khách quan và tạo ra sự phát triển của xã hội, từ đó tạo ra tính khách quan của sự hình thành, tồn tại và phát triển của kinh tế hộ trong xã hội.

Kinh tế hộ nông dân là một lực lượng sản xuất quan trọng ở nông thôn Việt Nam. Hộ nông dân ở nông thôn thường sản xuất, kinh doanh đa dạng, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh ngành nghề phụ. Kinh tế hộ nông dân được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, thúc đẩy phát triển từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới. Với mục đích giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp, Bộ Chính trị (khóa VI) đã ban hành Nghị quyết số 10/NQ-TW, ngày 05/4/1988 về “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, theo đó chuyển giao đất đai và các tư liệu sản xuất khác cho hộ nông dân quản lý và sử dụng lâu dài. Điều đó đã tạo điều kiện cho các hộ nông dân trở thành những đơn vị tự chủ trong sản xuất nông nghiệp, tức là thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở. Từ đó, các hộ gia đình được tự chủ trong sản xuất kinh doanh, được toàn quyền trong điều hành sản xuất, sử dụng lao động, mua sắm vật tư kỹ thuật, hợp tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do họ làm ra. Như vậy, có thể hiểu kinh tế hộ nông dân là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu của hộ gia đình, trong đó các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông nghiệp. Sự tồn tại của kinh tế hộ nông dân chủ yếu dựa vào lao động gia đình để khai thác đất đai và tài nguyên khác nhằm phát triển sản xuất, thoát nghèo bền vững và vươn lên làm giàu chính đáng. Cho đến nay, kinh tế hộ nông dân đã phát huy vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Khuyến khích phát triển kinh tế hộ”(1).

Trong công cuộc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới, người nông dân có vai trò là chủ thể. “Chủ thể” thường được hiểu một cách chung nhất là nhân tố, bộ phận chính, giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động của một hệ thống tổ chức, hay quá trình phát triển nào đó. Chủ thể có thể là một cá nhân, đơn vị hoặc tổ chức.

Vai trò chủ thể của nông dân trong công cuộc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới thể hiện ở chỗ: Trực tiếp tham gia phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; chủ động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn; chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới; xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá - xã hội, môi trường ở nông thôn; bảo đảm an ninh trật tự xã hội ở nông thôn, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.
Để nông dân thực hiện có hiệu quả vai trò chủ thể của mình thì cần phải bảo đảm đầy đủ, đồng bộ các điều kiện: Cơ sở kinh tế; cơ sở chính trị - xã hội; cơ sở pháp lý; năng lực thực thi vai trò chủ thể và cơ chế thực thi vai trò chủ thể. Thực tiễn cho thấy việc xây dựng và bảo đảm các cơ sở kinh tế, cơ sở chính trị - xã hội, cơ sở pháp lý là rất quan trọng cho vai trò chủ thể của nông dân. Tuy nhiên, việc nâng cao năng lực thực thi vai trò chủ thể của nông dân và hoàn thiện cơ chế thực thi sẽ đóng vai trò quyết định để hiện thực hóa vai trò chủ thể của nông dân; trong đó năng lực thực thi vai trò chủ thể trong kinh tế của nông dân đóng vai trò then chốt. Điều đó cho thấy phát triển kinh tế hộ nông dân là một trong những cơ sở quan trọng cho nông dân thực thi và nâng cao vai trò chủ thể của mình.

Một số nét cơ bản về tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân và vai trò chủ thể của nông dân trong thời gian qua

Đối với nước ta, nông nghiệp luôn là ngành kinh tế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến sự ổn định và phát triển của đất nước. Nông nghiệp có đặc trưng là phân bố rộng trên toàn bộ lãnh thổ, phân tán do có nhiều hộ nông dân nhỏ tham gia với hơn 9 triệu hộ, 32,9 triệu lao động, chiếm 62,7% lao động cả nước(2). Hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp ở Việt Nam là nông hộ, chiếm 90% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua, kinh tế hộ nông dân đã phát huy hiệu quả, từng bước chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng hàng hóa nông sản; tích cực tham gia vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường, thúc đẩy phát triển hình thức hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản và ứng dụng khoa học, công nghệ; trực tiếp tham gia Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển các ngành, nghề gắn với định hướng phát triển kinh tế nông thôn, chuyển đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh, phát triển các sản phẩm chủ lực, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn. Kết quả của kinh tế hộ nông dân nói trên đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của ngành Nông nghiệp, đồng thời tạo dựng và phát triển phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”. Theo Báo cáo của Hội nghị biểu dương Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi toàn quốc lần thứ VI, giai đoạn 2017-2022 do Hội Nông dân Việt Nam tổ chức cho thấy, trong giai đoạn này, số hộ nông dân đạt danh hiệu hộ sản xuất kinh doanh giỏi các cấp là 3,6 triệu hộ. So với giai đoạn 2012 - 2017, số hộ có mức thu nhập trên 500 triệu đồng/năm tăng gấp 3 lần, số hộ có mức thu nhập trên 1 tỷ đồng/năm tăng gấp 2 lần. Nông dân Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế quan trọng trong xã hội và phát huy tốt hơn vai trò là chủ thể trong công cuộc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nói về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Đảng ta đã khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất… Nông dân đã phát huy tốt hơn vai trò là chủ thể, tham gia hợp tác, liên kết, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế, khôi phục ngành nghề nông thôn, xây dựng nông thôn mới; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã  hội. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn dân…; diện mạo nông thôn Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt”(3).

Bên cạnh những thành tựu nói trên, kinh tế hộ nông dân và vai trò chủ thể của người nông dân còn một số vấn đề rất cơ bản đặt ra trong quá trình phát triển:

Một là, nguồn lực sản xuất hạn hẹp. Quy mô sản xuất của hộ nông dân cơ bản vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, bình quân một hộ nông dân có 3,6 người(4); nguồn lực sản xuất, đặc biệt là đất đai rất hạn hẹp, diện tích đất canh tác bình quân hộ nông dân thấp chỉ ở mức dưới 0,68ha(5) nên hộ nông dân rất nhỏ về tiềm lực kinh tế, sản xuất đơn lẻ, khả năng chịu đựng rủi ro thấp, không tương thích với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay; mô hình sản xuất hộ nông dân chậm đổi mới, các mô hình liên kết giữa nông dân với nông dân, giữa nông dân và doanh nghiệp chậm phát triển.

Hai là, đời sống và chất lượng lao động thấp. Đời sống kinh tế của nông dân vẫn thấp và bấp bênh nên khả năng tích lũy của hộ nông dân thấp, khó đầu tư mở rộng sản xuất, tự ứng phó với những cú sốc về giá cả, rủi ro thời tiết hay dịch bệnh. Chất lượng lao động của kinh tế hộ nông dân thấp, đa số nông dân có trình độ học vấn, chuyên môn thấp và chưa được đào tạo; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên tại khu vực nông thôn là 16%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ của thành thị (39,3%) và thấp hơn so với mức chung của cả nước (24,6%)(6); thiếu kiến thức khoa học, kiến thức tổ chức sản xuất, chuyển đổi tư duy sản xuất chậm.

Ba là, thiếu thông tin thị trường và gặp khó khăn tiếp cận công nghệ sản xuất mới. Hộ nông dân luôn thiếu thông tin, luôn bị động với thị trường và gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ sản xuất mới; thiếu sự gắn kết giữa các chủ thể tiêu thụ với các hộ sản xuất nông nghiệp, nông dân không bám sát được sự thay đổi nhanh chóng của thị trường và giá cả nông sản. Vì vậy, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản thấp, chưa đa dạng, kích cỡ màu sắc không đồng đều, thiếu nhận diện, chưa có truy xuất nguồn gốc, chưa có thương hiệu trên thị trường. 

Bốn là, tiếp cận vốn và chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất chưa hiệu quả. Sản xuất nông nghiệp vẫn luôn là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhưng các cơ chế, chính sách xử lý, phòng ngừa rủi ro như bảo hiểm trong nông nghiệp chưa được triển khai mạnh mẽ nên đã ảnh hưởng lớn đến năng lực tài chính, cũng như khả năng trả nợ khi gặp rủi ro trong sản xuất, kinh doanh của nông dân. Thực tế cho thấy, nhiều hộ nông dân sử dụng vốn vay không đúng mục đích, đầu tư không đúng đối tượng nên hiệu quả mang lại không cao. Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, nhưng trình độ của người nông dân còn thấp dẫn đến thiếu những kiến thức cần thiết cho việc tiếp cận chính sách, lập các dự án, quản lý và có kế hoạch sử dụng hiệu quả các ưu đãi của chính sách phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. 

Năm là, ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến sự phát triển kinh tế hộ cũng như năng lực làm chủ thể của nông dân. Một số biểu hiện của tâm lý tiểu nông như: Ngại thay đổi, an phận, cam chịu, tiết chế nhu cầu; tập quán canh tác và thói quen sinh hoạt lạc hậu; tư duy, tầm nhìn hạn hẹp, lối làm việc qua loa, đại khái, hình thức… gần như là phổ biến, ăn sâu bám rễ của phần lớn nông dân, nhất là ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển, kết cấu hạ tầng còn thiếu, giao thông đi lại khó khăn, giao lưu văn hóa, kinh tế còn nhiều hạn chế... Đó là rào cản không nhỏ đến sự phát triển kinh tế hộ và năng lực làm chủ thể của nông dân. 

Từ phân tích nói trên và thực tiễn cho thấy các hộ nông dân về cơ bản không thể thực hiện đồng thời 3 chức năng của đơn vị kinh tế trong cơ chế thị trường: 1) Nghiên cứu thị trường để tổ chức sản xuất theo nhu cầu thị trường và lợi thế của mình; 2) Tổ chức sản xuất hiệu quả cao; 3) Tổ chức tiêu thụ nông sản. 

Vườn dưa hấu cho thu nhập cao của gia đình chị Chúc Thị Hè thôn Tát Ten (xã Bình An, huyện Lâm Bình, Tuyên Quang).

Vai trò của Hội NDVN trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế hộ nông dân nhằm nâng cao vai trò chủ thể của nông dân

Những thành tựu to lớn của công cuộc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới trong thời gian qua có đóng góp không nhỏ của Hội Nông dân Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định: “Hội Nông dân các cấp tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, hướng về cơ sở, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao hiệu quả các hoạt động hỗ trợ nông dân, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới”(7). Trong thời gian tới, hình thức tổ chức sản xuất nông hộ vẫn là cơ bản trong sản xuất nông nghiệp. Kinh tế hộ nông dân có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng. Việc hỗ trợ phát triển kinh tế hộ nông dân để giúp nông dân vươn lên trở thành người sản xuất, kinh doanh giỏi, là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Hội Nông dân Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó, Hội Nông dân Việt Nam cần triển khai thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau đây:

Một là, cần có nhận thức đúng và đầy đủ về vị trí, vai trò của kinh tế hộ nông dân. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn của nước ta, vai trò và năng lực của người nông dân (trước hết là các chủ hộ) được thể hiện tập trung ở trình độ phát triển của kinh tế hộ nông dân. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định kinh tế hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ, cơ bản, nền tảng trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Hộ nông dân là một đơn vị đặc thù, vừa là đơn vị sản xuất kinh doanh tự chủ, vừa là đơn vị tiêu dùng, đồng thời là tế bào cơ bản của xã hội. Trình độ, quy mô, sự phát triển hiệu quả, bền vững của kinh tế hộ nông dân đóng vai trò chủ thể nền tảng của cho sự phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Hội Nông dân Việt Nam cần có kế hoạch tăng cường truyên truyền về vị trí, vai trò của kinh tế hộ nông dân, trước hết là các cấp Hội Nông dân (với tư cách là người hỗ trợ) và cho nông dân (với tư cách là người trực tiếp thực hiện).  

Hai là, hỗ trợ nâng cao năng lực của nông dân gắn với phát triển kinh tế hộ nông dân. Để thực hiện việc hỗ trợ thiết thực và có hiệu quả, Hội Nông dân Việt Nam cần có giải pháp cụ thể cho từng nhóm hộ nông dân. Đối với nhóm hộ nghèo, cần tập trung hỗ trợ để nâng cao mức sống, đồng thời và quan trọng hơn là thực hiện giải pháp đào tạo nghề, kỹ thuật sản xuất, phát triển sinh kế gắn với phát triển điều kiện sản xuất; đối với nhóm hộ sản xuất nhỏ, cần tập trung hỗ trợ nâng cao trình độ và trạng thái kinh tế hộ, tạo điều kiện để họ vượt qua được ngưỡng tái sản xuất giản đơn để đi vào sản xuất hàng hóa thông qua quá trình tăng quy mô canh tác của hộ, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất với quy mô cần thiết cho phát triển nông sản hàng hóa, hỗ trợ đào tạo kiến thức và kỹ năng sản xuất hàng hóa, tiếp cận thị trường cho hộ nông dân; tổ chức, hoàn thiện hệ thống dịch vụ và tiêu thụ nông sản, đồng thời hướng dẫn và hỗ trợ thành lập các mô hình hợp tác xã và những hình thức liên kết sản xuất kinh doanh phù hợp với trình độ và quy mô sản xuất hàng hóa; đối với nhóm hộ sản xuất kinh doanh có quy mô lớn, cần tiếp tục hỗ trợ nâng cao quy mô, hiệu quả và chất lượng sản xuất kinh doanh, hình thành vùng chuyên sản xuất nông sản hàng hóa đủ sức tham gia vào chuỗi giá trị quốc gia và toàn cầu; hỗ trợ chương trình đào tạo nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và quy trình sản xuất kinh doanh tiên tiến để nâng cao khả năng ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản xuất và nâng cao năng lực tiếp cận thị trường; hỗ trợ đẩy mạnh hình thức liên kết sản xuất kinh doanh gắn các đơn vị chế biến, cung cấp dịch vụ và doanh nghiệp thương mại với hộ nông dân và hợp tác xã nông nghiệp. Đây chính là nhóm hộ sẽ hình thành nông dân thế hệ mới với kiến thức và kỹ năng quản lý sản xuất kinh doanh tổng hợp nhằm đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại trong Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.

Ba là, hỗ trợ phát triển các hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Quá trình phát triển nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ nói riêng suy cho cùng quá trình phát triển và tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau giữa kinh tế hộ nông dân với nhau và với các hợp tác xã, các doanh nghiệp và với các chủ thể liên quan khác thông qua các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết kinh doanh khác. Các hình thức hợp tác, liên kết nhằm chia sẻ về mặt lợi ích, trách nhiệm, rủi ro trong quá trình sản xuất, kinh doanh mà hộ nông dân là cơ sở. Căn cứ vào các điều kiện cụ thể của mình, các đơn vị kinh tế hộ nông dân sẽ tham gia vào các hình thức hợp tác và liên kết kinh doanh với các chủ thể khác ở những cấp độ khác nhau. Hội Nông dân Việt Nam hỗ trợ các hộ nông dân tham gia các hình thức liên kết trong sản xuất, kinh doanh cũng chính là một trong những giải pháp hiệu quả để Hội tham gia phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh và lan tỏa phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững” đã được Hội Nông dân Việt Nam phát động từ năm 1989. Gần 35 năm qua, thực tiễn sinh động của phong trào đã xây dựng được một đội ngũ nông dân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dũng cảm vượt qua khó khăn, thử thách; mạnh dạn thay đổi cách nghĩ, cách làm, chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp; biết khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn có, sẵn sàng tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh để làm giàu cho gia đình, giúp đỡ nhiều hộ khác vươn lên thoát nghèo và góp phần làm giàu cho quê hương, đất nước. Trong thời gian tới, Hội Nông dân Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh và lan tỏa phong trào hướng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn, nâng cao giá trị ngày công lao động, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh, xây dựng thương hiệu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; đồng thời, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội. Phong trào không chỉ phát triển kinh tế hộ mà còn phải tạo ra yêu cầu, điều kiện cho việc phát triển kinh tế tập thể một cách vững chắc, hiệu quả. 

Năm là, hỗ trợ để nông dân phát huy vai trò là chủ thể trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Vấn đề phát huy vai trò chủ thể của nông dân chính là vấn đề xây dựng và phát huy yếu tố con người. Nông dân là chủ thể đích thực phải là những nông dân có trình độ, kiến thức và khoa học kỹ thuật tiên tiến; phải lành nghề về sản xuất nông nghiệp; hiểu biết pháp luật và năng lực thực thực thi pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Họ cũng phải là những nông dân biết ngoại ngữ, có kỹ năng sử dụng máy móc, tin học và dịch vụ công tốt, hiểu biết về hội nhập quốc tế, phải có sự liên kết hợp tác chặt chẽ, tích cực trong sản xuất, kinh doanh không chỉ nông dân với nông dân, mà còn với nhà khoa học, các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân nước ngoài. Hội Nông dân Việt Nam cần hỗ trợ, đào tạo nông dân đáp ứng được những năng lực trên. Đó cũng chính là tinh thần của quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 46-NQ/TW, ngày 23/12/2023 của Bộ Chính trị về đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. 

*Nguyên Phó Giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
Tài liệu tham khảo:
(1). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr 124; 
(2).Tổng cục Thống kê: Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023.
(3). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr 88-90;
(4). Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí về kết quả khảo sát mức sống dân cư 2022.
(5). Nguyễn Quang Học: Hiện trạng về đất trồng lúa và đề xuất nội dung sửa đổi tại Dự thảo luật Đất đai (sửa đổi) liên quan đến quản lý, sử dụng đất trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực, https://www.mard.gov.vn.
(6).Trịnh Xuân Việt: Thực trạng và giải pháp đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay, https://tapchicongthuong.vn.
(7). Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 46-NQ/TW, ngày 23-12-2023 của Bộ Chính trị về đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 182/QĐ-TTg ngày 20-02-2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hội Nông dân Việt Nam tham gia phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp đến năm 2030”.

 

Tin cùng chuyên mục
Tin khác