Giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam ở mức đỉnh của 15 năm
Giá lúa ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua tiếp tục có diễn biến tăng ở nhiều địa phương.
Cùng với đó, giá gạo 5% tấm xuất khẩu cũng được chào bán ở mức đỉnh của 15 năm từ 590-600 USD/tấn. Mức giá này cao hơn so với mức từ 550-575 USD/tấn của tuần trước.
Một thương nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh cho biết giá gạo tiếp tục tăng sau khi Ấn Độ và một số nước khác hạn chế xuất khẩu.
Nhận định về triển vọng giá gạo, nhiều thương nhân nói: “Chưa biết giá sẽ tăng đến mức nào." Trong hai tuần qua, giá lúa của Việt Nam đã tăng mạnh, do nhu cầu lớn từ các nhà xuất khẩu và chế biến.
Số liệu từ Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho thấy, ở Sóc Trăng, giá lúa tăng so với tuần trước như Đài thơm 8 ở mức 8.100 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; RVT là 7.800 đồng/kg, cũng tăng 200 đồng/kg; OM 5451 tăng 100 đồng/kg, lên mức 7.800 đồng/kg.
Giá lúa ở Hậu Giang cũng có sự tăng khá như IR 50404 lên 8.000 đồng/kg, tăng 400 đồng/kg; RVT là 8.400 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; OM 18 là 8.500 đồng/kg, tăng 600 đồng/kg.
Tại Cần Thơ, giá lúa tiếp tục duy trì ổn định ở một số giống như IR 50404 là 6.800 đồng/kg, Jasmine là 7.600 đồng/kg; OM 4218 là 7.500 đồng/kg.
Giá lúa tại Tiền Giang như IR 50404 ở mức 7.200 đồng/kg, lúa Jasmine ở mức 7.200 đồng/kg; riêng OC10 tăng 200 đồng/kg lên mức 7.200 đồng/kg.
Giá lúa tại Kiên Giang cũng có sự tăng giá ở nhiều loại như IR 50404 ở mức 6.600 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; OM 5451 là 6.900 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; Jasmine ở mức 7.100 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong tháng 7, giá lúa Hè Thu các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có mức tăng trung bình từ 200 - 500 đồng/kg tùy loại.
Trong số đó, lúa IR50404 tăng 300 đồng/kg lên trung bình 6.500 đồng/kg; lúa OM 5451 tăng 500 đồng/kg lên 6.800 đồng/kg. Tại Kiên Giang, lúa IR50404 tăng 300 đồng/kg lên 6.550 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 tăng 150 đồng/kg lên 6.950 đồng/kg; trong khi lúa OM 5451 vẫn giữ ổn định ở mức 6.450 đồng/kg.
Giá gạo cũng có xu hướng tăng trong tháng 7/2023. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR50404 được thu mua ở mức từ 10.250-10.300 đồng/kg, tăng 450 đồng/kg. Gạo thành phẩm ở mức từ 11.700-11.750 đồng/kg, tăng 500 đồng/kg so với tháng 6/2023.
Không chỉ Việt Nam, trong tuần qua, giá gạo tiếp tục tăng mạnh tại hầu hết các trung tâm xuất khẩu gạo hàng đầu châu Á, do tâm lý lo ngại về nguy cơ thiếu hụt nguồn cung sau lệnh hạn chế xuất khẩu gạo của Ấn Độ.
Trên thị trường, giá gạo 5% tấm của Thái Lan đã tăng lên mức cao nhất trong 15 năm, đạt 627-630 USD/tấn, cao hơn đáng kể so với mức giá 545 USD/tấn được ghi nhận vào tuần trước.
Một thương nhân ở thủ đô Bangkok cho biết giá gạo cao khiến hoạt động bán hàng ngưng trệ, đồng thời tiết lộ nhiều khả năng sẽ có thêm nguồn cung mới tham gia thị trường vào cuối tháng này.
Một thương gia khác chia sẻ Thái Lan có thể đạt được mục tiêu xuất khẩu 8 triệu tấn gạo trong năm 2023, nhưng vẫn phải theo dõi chặt chẽ tình hình ở Ấn Độ. Sau khi Chính phủ Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng không phải basmati ngày 20/7, giá gạo đồ 5% tấm của nước này đã tăng lên mức kỷ lục 450-455 USD/tấn.
Một nhà xuất khẩu cho biết giá gạo đồ của Ấn Độ tăng, vì đó là loại gạo duy nhất được phép xuất khẩu. Nhưng nhu cầu đang thấp hơn bình thường vì giá cao.
Thị trường nông sản Mỹ
Trên thị trường nông sản Mỹ, đóng cửa phiên giao dịch ngày 4/8, giá ngô trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) tăng 0,75%, tương đương 4 xu Mỹ. Cụ thể, giá ngô giao tháng 9/2023 và giao tháng 12/2023 được niêm yết lần lượt ở mức giá 4,8475 USD/bushel và 4,9759 USD/bushel.
Giá lúa mỳ giao tháng 9/2023 cũng tăng 8 xu Mỹ, lên 6,35 USD/bushel. Giá đậu tương giao tháng 8/2023 tăng 15,25 xu Mỹ, lên mức 14,44 USD/bushel, trong khi giá đậu tương giao tháng 9/2023 tăng 2,5 xu Mỹ, lên 13,8450 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Bà Naomi Blohm, cố vấn thị trường cấp cao của công ty Stewart Peterson nhận định, một loạt yếu tố đang gây áp lực lên giá ngô trong ngắn hạn, đó là điều kiện thời tiết có xu hướng cải thiện, nhu cầu xuất khẩu có dấu hiệu yếu đi, hoạt động bán ra của các quỹ và đồng USD tăng giá.
Về thị trường càphê thế giới, kết thúc phiên giao dịch ngày 4/8, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe-London đảo chiều đi xuống. Giá càphê Robusta giao tháng 9/2023 giảm 33 USD, xuống 2.612 USD/tấn và giá càphê Robusta giao tháng 11/2023 giảm 28 USD, còn 2.488 USD/ tấn.
Giá càphê Arabica trên sàn giao dịch ICE US-New York cũng nối tiếp xu hướng giảm. Giá càphê Arabica giao tháng 9/2023 giảm 3,40 xu Mỹ, xuống 161,35 xu USD/lb và giá càphê Arabica giao tháng 12/2023 giảm 3,05 xu Mỹ, còn 160,95 xu USD/lb. Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình (1 lb = 0,4535 kg).
Giá càphê thế giới đi xuống sau khi các ngân hàng trung ương toàn cầu tiếp tục nâng lãi suất, gây sức ép cho các thị trường./.
Theo Vietnam+