Những điều cần biết về bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu là gì?
Theo Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra. Vi khuẩn bạch cầu là Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae, có 3 týp là Gravis, Mitis và Intermedius. Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ, tuy nhiên cũng có thể gặp ở người lớn nếu không có miễn dịch, khả năng lây lan mạnh và tạo thành dịch.
Nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản
Bệnh bạch hầu có thể lây truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành thông qua đường hô hấp. Đây là hình thức lây bệnh phổ biến, ngoài ra vi khuẩn bạch hầu cũng truyền từ người này sang người khác thông qua vật trung gian như đồ chơi, vật dụng có chứa dịch tiết của người bệnh. Vi khuẩn bạch hầu có thể xâm nhập qua da bị tổn thương, gây bạch hầu da. Trung bình sau khoảng hai tuần nhiễm vi khuẩn, người bệnh có thể bắt đầu lây nhiễm cho người khác thông qua các hình thức nói trên.
Bệnh bạch hầu có nguy hiểm không?
Bạch hầu thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ em. Biểu hiện lâm sàng bị nhiễm ngoại độc tố bạch hầu tại chỗ là giả mạc và biểu hiện toàn thân là nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên và thần kinh cảm giác và/hoặc viêm cơ tim. Tỷ lệ tử vong khoảng 5% - 10%. Đặc biệt, theo Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật Mỹ, tỷ lệ tử vong có thể tăng cao lên đến 20% ở trẻ dưới 5 tuổi và người lớn trên 40 tuổi.
Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lây dễ dàng qua đường hô hấp và tiếp xúc với dịch từ mũi họng người bệnh. Vi khuẩn có thể lây nhiễm và tồn tại trên bề mặt của các đồ vật xung quanh từ vài ngày đến vài tuần, ví dụ trong sữa và nước uống sống đến 20 ngày; trong tử thi sống được hai tuần... Thời gian ủ bệnh 2-5 ngày. Nhóm nguy cơ cao là trẻ nhỏ, người cao tuổi và người có khả năng miễn dịch thấp.
Triệu chứng khi bị bệnh bạch hầu
Bệnh nhân thường xuất hiện các triệu chứng bệnh bạch hầu điển hình như sốt nhẹ, ho, khàn tiếng, đau họng dẫn đến chán ăn. Sau khoảng 2 đến 3 ngày, xuất hiện giả mạc màu trắng ngà, dày dai, bám chặt vào mặt sau hoặc lan rộng hai bên thành họng, dễ chảy máu. Đây là một trong những triệu chứng phổ biến, dễ nhận biết của bệnh. Bệnh có thể điều trị qua khỏi hoặc có thể gây tử vong chỉ trong 6 – 10 ngày. Có 7 biến chứng của bệnh bạch hầu:
Đường hô hấp tắc nghẽn gây khó thở
Hầu hết các triệu chứng bệnh bạch hầu chủ yếu là gây viêm họng, đau họng, tổn thương thanh quản. Vi khuẩn bạch hầu sẽ tạo lớp giả mạc màu trắng ngà do các mô tế bào bị viêm tạo ra lớp màng giả mạc bám chặt vào trong vòm họng. Nếu không điều trị, mảng giả mạc này sẽ phát triển và lan rộng lấp đường hô hấp gây khó thở, ngạt thở, suy hô hấp cho người bệnh.
Viêm cơ tim
Viêm cơ tim là một trong những biến chứng đặc biệt nghiêm trọng của bệnh bạch hầu. Ngoại độc tố bạch hầu tiết ra làm ảnh hưởng đến tim, gây ra rối loạn nhịp tim và có thể tử vong đột ngột do trụy tim. Biến chứng viêm cơ tim thường xảy ra khi người bệnh ở giai đoạn toàn phát hoặc vài tuần sau khi khỏi bệnh. Trường hợp viêm cơ tim xuất hiện vào những ngày đầu của bệnh, người bệnh có tiên lượng xấu, tỷ lệ tử vong cao. Ngoài ra, viêm màng bao tim (gây đau nhói ở ngực), tràn dịch màng bao tim cũng xuất hiện đồng thời khi người bệnh gặp biến chứng viêm cơ tim.
Tổn thương các dây thần kinh dẫn đến tê liệt
Độc tố bạch hầu rất mạnh, chúng còn làm tổn thương các dây thần kinh dẫn đến tê liệt. Biến chứng này có thể xảy ra khoảng vài tuần sau khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên của bệnh bạch hầu.
Liệt màn khẩu cái (màn hầu)
Liệt màn khẩu cái thường xuất hiện vào tuần thứ 3 của bệnh, đây cũng là một trong những biến chứng khác có thể gặp khi mắc bạch hầu.
Bàng quang mất kiểm soát
Một biến chứng bệnh bạch hầu khác có thể xảy ra với người mắc bạch hầu là vấn đề liên quan đến dây thần kinh kiểm soát bàng quang (rối loạn chức năng thần kinh bàng quang). Khi dây thần kinh ở vị trí này bị tổn thương, người bệnh sẽ không thể kiểm soát được hoạt động của bàng quang khiến đi tiểu thường xuyên, tiểu rắt,… Các vấn đề liên quan đến kiểm soát bàng quang thường phát triển trước khi cơ hoàng bị tê liệt, đây cũng có thể được xem là dấu hiệu cảnh báo sớm người bệnh có nguy cơ cao gặp các vấn đề nghiêm trọng về hệ hô hấp.
Cơ hoành bị tê liệt
Cơ hoành được miêu tả là một cơ hình vòm dày ngăn cách phần ngực với bụng, có chức năng rất quan trọng trong hệ hô hấp giúp duy trì sự sống. Tuy nhiên, với những người mắc bạch hầu, cơ hoành bị tê liệt một cách đột ngột với thời gian kéo dài khiến người bệnh có nguy cơ tử vong cao.
Biến chứng tê liệt cơ hoành thường xuất hiện vài tuần sau khi có triệu chứng mắc bệnh bạch hầu, ngay cả khi người bệnh đã phục hồi sau nhiễm trùng ban đầu hoặc xuất hiện sau các biến chứng nhiễm trùng phổi, viêm cơ tim,…
Nhiễm trùng phổi (suy hô hấp hoặc viêm phổi)
Biến chứng này có thể xảy vào tuần thứ 5 của bệnh khiến liệt chi, cơ hoành và các dây thần kinh vận nhãn. Cơ hoành được biết đến với vai trò đặc biệt quan trọng đối với hệ hô hấp, do đó khi bộ phận này bị liệt, người bệnh sẽ gặp phải các biểu hiện khó thở, ngạt thở thường xuyên hơn, thậm chí có thể dẫn đến nhiễm trùng phổi (viêm phổi hoặc suy hô hấp).
Phòng bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu là nguyên nhân gây ra những biến chứng nghiêm trọng đối với sức khỏe, thậm chí đe dọa tính mạng. Do đó, người dân tuyệt đối không nên chủ quan, hãy bảo vệ sức khỏe bản thân và gia đình bằng những biện pháp sau:
Tiêm phòng đầy đủ và đúng lịch. Trẻ em từ hai tháng tuổi bắt đầu tiêm, phác đồ ba mũi cơ bản cách nhau một tháng, tiêm mũi bốn khi 16-18 tháng tuổi. Trẻ 4-6 tuổi cần được nhắc lại một mũi. Trẻ tuổi 9-15 cần tiêm nhắc một mũi, sau đó chủng ngừa 10 năm một lần. Thai phụ tiêm mũi bạch hầu - ho gà - uốn ván vào ba tháng giữa hoặc cuối thai kỳ. Đây là mũi tiêm bảo vệ mẹ và thai nhi đồng thời truyền kháng thể cho em bé khi sinh ra, phòng bệnh trong những tháng đầu đời.
Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng, dung dịch sát khuẩn và nước sạch;
Che miệng, mũi khi ho hoặc hắt hơi;
Vệ sinh nhà ở, trường học, nơi làm việc… đảm bảo thông thoáng;
Vệ sinh miệng, mũi, họng hàng ngày;
Hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
Phải sát trùng tẩy uế đồng thời và sát trùng tẩy uế lần cuối tất cả các đồ vật có liên quan tới bệnh nhân. Tẩy uế và diệt khuẩn phòng bệnh nhân hàng ngày bằng cresyl, chloramin B; bát đĩa, đũa, chăn màn, quần áo… phải được luộc sôi; sách, vở, đồ chơi v.v… phải được phơi nắng.
Đặc biệt, người dân cần đến ngay các cơ sở y tế khi xuất hiện bất kỳ dấu hiệu bất thường của cơ thể nghi ngờ mắc bệnh. Bác sĩ sẽ chỉ định lấy mẫu bệnh phẩm ở họng hoặc mẫu mô từ vết thương bị nhiễm trùng của bệnh nhân và mang đi xét nghiệm để kiểm tra xác định có phải là vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae.