Phấn đấu đến năm 2050
Việt Nam trở thành quốc gia có tỷ lệ sử dụng thuốc BVTV sinh học dẫn đầu trong trong khu vực
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) là một loại vật tư nông nghiệp đóng vai trò quan trọng giúp đảm bảo việc kiểm soát sâu bệnh, tránh ảnh hưởng năng suất cây trồng. Tuy nhiên, việc sử dụng, lạm dụng thuốc có thể gây ra nhiều hậu quả không mong muốn, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. Do đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Trồng trọt là hỗ trợ các chủ trương của ngành BVTV phát triển theo hướng bền vững, xanh và chất lượng cao.
Thời gian qua, Cục BVTV đã ưu tiên thực hiện đăng ký các loại thuốc sinh học, thuốc thế hệ mới an toàn, ít độc, có hiệu quả, không gây ảnh hưởng đến con người, vật nuôi và môi trường; đồng thời rà soát, loại bỏ các thuốc BVTV độc hại. Việc đẩy mạnh sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học góp phần phát triển một nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái, an toàn và bền vững; nâng cao tiềm lực nghiên cứu, ứng dụng và làm chủ công nghệ hiện đại trong sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Tại Diễn đàn, GS. TS Nguyễn Văn Tuất, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam chia sẻ: Hiện nay, nước ta có 10 loại cây trồng chính có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD như lúa, ngô, sắn… Việc mở rộng diện tích cây trồng, đầu tư thâm canh, sinh vật gây hại xuất hiện không theo quy luật đã làm gia tăng nhanh chóng số lượng hóa chất dùng trong nông nghiệp. Trong lĩnh vực phòng trừ dịch hại, do sâu bệnh kháng thuốc nhanh nên nông dân thường tăng nồng độ sử dụng, dẫn đến dư lượng thuốc BVTV trong sản phẩm nông nghiệp tăng cao, nên việc áp dụng IPHM là rất cần thiết.
Trong 5 năm vừa qua có các sinh vật gây hại cây trồng mới phát sinh, mới nổi và bùng phát thành dịch là một trong những thách thức đối với ngành thuốc BVTV. Tuy nhiên, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà quản lý, cơ quan nghiên cứu, viện, trường, doanh nghiệp… đã đề xuất được các quy trình kỹ thuật và hướng dẫn cho việc áp dụng. Riêng về cỏ, hiện chúng ta rất ít nghiên cứu, trong thời gian tới nếu muốn giảm thuốc trừ cỏ, phải có thêm các nghiên cứu thật kỹ về nhóm này.
Định hướng phát triển trong thời gian tới cần phải nghiên cứu những sâu bệnh chính và nâng cao tính dự đoán, dự báo. Phải dự báo được những loại bệnh mới sẽ nảy sinh theo quy luật nào, cần cập nhật thì mới có hướng dẫn kịp thời và hiệu quả. Bên cạnh đó, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học bảo vệ thực vật; chẩn đoán giám định nhanh sâu bệnh cỏ dại và các vi sinh vật hại khác phục vụ kiểm dịch thực vật về xuất nhập khẩu nông sản hàng hóa…
Theo ông Tuất, trung bình chỉ 30% lượng phân bón hóa học đa lượng được cây trồng hấp thụ, phần còn lại 70% hoặc ở lại trong đất, hoặc bị rửa trôi ra hệ thống sông, suối hoặc hệ thống nước ngầm, hay bị bay hơi vào khí quyển dẫn tới những ô nhiễm. Trong số phân vi lượng truyền thống và thuốc BVTV được dùng thì ước lượng tương ứng khoảng 40% - 50% bị tích tụ lại trong đất và môi trường xung quanh dưới dạng khó hòa tan. Thực trạng cho thấy người sản xuất nông nghiệp ít chú ý tới việc bón phân vi lượng mà chỉ tập trung chủ yếu vào các loại phân vô cơ đa lượng và một phần phân trung lượng. Thực tế đó đã dẫn tới mất cân bằng dinh dưỡng cây trồng.
PGS. TS Nguyễn Xuân Hồng, Phó Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam chia sẻ: Sử dụng thuốc hóa học gây ra những hậu quả xấu về an toàn thực phẩm, môi trường, đa dạng sinh học, hiện tượng kháng thuốc và bùng phát dịch hại… Giải pháp sử dụng các biện pháp sinh học và thuốc BVTV sinh học thay thế thuốc hóa học là xu thế tất yếu, phù hợp với chiến lược IPM, tăng trưởng xanh và đạt được sự đồng thuận cao của các quốc gia trên thế giới. Thống kê cho thấy, tổng giá trị thị trường thuốc BVTV sinh học năm 2023 trên thế giới được dự báo là 6,7 tỷ USD. Năm 2028 tăng lên 13,9 tỷ USD, tăng trưởng bình quân về giá trị 15,9%/năm. Dự báo, năm 2040-2050, giá trị thị trường thuốc BVTV sinh học sẽ bằng và vượt giá trị thị trường thuốc hóa học.
Tuy nhiên, việc phát triển thuốc BVTV sinh học vẫn gặp một số rào cản như: Hiệu lực chậm, thấp hơn và không ổn định; chuyên tính hẹp, không phong phú về chủng loại; thời gian bảo quản ngắn, dễ bị ảnh hưởng của môi trường, dễ bị lẫn tạp; sử dụng khó; chi phí sử dụng thuốc cao; thói quen sử dụng thuốc BVTV hóa học của người dân; quy định về đăng ký tại nhiều nước còn bất cập… Nên quản lý thuốc BVTV sinh học tại Việt Nam cần theo 3 hướng chính: Sản xuất trong nước; nhập khẩu từ nước ngoài; sản xuất quy mô nông hộ, trang trại, hợp tác xã để sử dụng.
Ngoài ra, các chính sách lớn cần tập trung thực hiện là truyền thông nâng cao nhận thức, hiểu biết về sử dụng có trách nhiệm thuốc BVTV. Tiếp thu, chọn lọc kinh nghiệm của thế giới để bổ sung, hoàn thiện và thực thi hiệu quả các quy định về quản lý thuốc BVTV; Đào tạo nguồn nhân lực; Xây dựng mạng lưới các trung tâm, viện, trường, phòng thí nghiệm nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ sản xuất và sử dụng thuốc sinh học; Có chính sách tài chính cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, sản xuất, cung ứng thuốc BVTV sinh học;
Đổi mới công tác đăng ký, quản lý thuốc BVTV sinh học nhằm tạo động lực và quản lý hiệu quả hơn, hài hòa với quy định của các nước tiên tiến. Cập nhật, cụ thể hóa khái niệm thuốc BVTV sinh học tại Việt Nam; bổ sung quy định đối với một số sản phẩm sinh học mới. Ban hành danh mục các thuốc BVTV sinh học có độ rủi ro thấp được ưu tiên và đơn giản hóa thủ tục đăng ký
Đồng thời, loại bỏ một số yêu cầu về số liệu thử nghiệm đối với các thuốc sinh học rủi ro thấp; quy định về các trường hợp thuốc BVTV được ưu tiên đăng ký đặc cách; Tăng thời gian hiệu lực của giấy chứng nhận đăng ký thuốc BVTV sinh học lên 10-15 năm, thay cho 5 năm hiện nay; Bổ sung quy định chỉ cho phép thuốc BVTV sinh học được bán hàng online; Đổi mới quy định ghi nhãn thuốc BVTV sinh học…
Ông Võ Quan Huy, Công ty TNHH Huy Long An bày tỏ phấn khởi khi Bộ NN&PTNT ban hành các đề án mới về sức khỏe cây trồng. Việt Nam có đa dạng sinh học thảo dược và xác sinh vật có thể trở thành phân bón hữu ích cho ngành Nông nghiệp Việt Nam. Cục Bảo vệ thực vật đã xây dựng Đề án phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đến năm 2030, tầm nhìn 2050.
Tuy nhiên, về phát triển sinh sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật sinh học, công tác quản lý đang tiến hành rất chặt. Doanh nghiệp muốn đưa một chủng loại mới đi đăng ký đều gặp khó khăn trong khâu khảo nghiệm, chi phí cao nên việc phát triển sản phẩm có nhiều trở ngại, đưa tới hiện trạng “bình cũ rượu mới” để tránh đăng ký.
Từ thực trạng trên, kiến nghị Cục Bảo vệ thực vật cần tạo thông thoáng “dễ dãi” hơn trong khâu đăng ký lưu hành cho doanh nghiệp, chuyển sang hậu kiểm khi đăng ký sản phẩm mới, chỉ kiểm soát chất cấm trong sản phẩm. Thúc đẩy khoa học kỹ thuật trong nghiên cứu sản xuất các sản phẩm sinh học, đưa các công nghệ sản xuất mới trên thế giới về Việt Nam nhanh hơn, cập nhật sớm hơn.
Tại Diễn đàn, các báo cáo, tham luận của đại biểu đã chỉ ra, thuốc BVTV là một loại vật tư nông nghiệp đóng vai trò quan trọng giúp đảm bảo việc kiểm soát sâu bệnh tránh gây thiệt hại năng suất cây trồng. Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc có thể gây nhiều hậu quả không mong muốn, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. Do đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành trồng trọt là hỗ trợ các chủ trương của ngành BVTV phát triển theo hướng bền vững, xanh và chất lượng cao.
Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục BVTV, Bộ NN&PTNT cho biết: Hiện nay, việc quản lý, đăng ký thuốc BVTV sinh học đang được ưu tiên hơn thuốc hóa học. Thời gian đăng ký, thời gian khảo nghiệm thuốc BVTV sinh học chỉ bằng 1/2 so với thuốc BVTV hóa học, chi phí đăng ký giảm một nửa so với BVTV hóa học. Việc sử dụng thuốc BVTV sinh học còn nhiều hạn chế nguyên nhân chủ yếu là nhận thức của người dân và các bên liên quan chưa đúng về hiệu lực, kỹ thuật sử dụng, hiệu quả kinh tế của thuốc BVTV sinh học.
Mục tiêu thời gian tới của ngành BVTV là nâng tỷ lệ sản phẩm thuốc BVTV sinh học trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam lên 30% so với tổng số thuốc BVTV. Tăng lượng sử dụng thuốc BVTV sinh học lên 30% so với tổng lượng thuốc BVTV sử dụng. Ít nhất 80% địa phương tập huấn về sử dụng thuốc BVTV sinh học an toàn và hiệu quả cho người sử dụng. Phấn đấu đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có tỷ lệ sử dụng thuốc BVTV sinh học dẫn đầu trong trong khu vực. Các cơ sở sản xuất thuốc BVTV sinh học quy mô công nghiệp có công nghệ, trang thiết bị hiện đại, chủ động sản xuất được các thuốc BVTV sinh học tiên tiến đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Cà Mau: Sẽ xây mới, sửa chữa 4.400 căn nhà
- Mở ra nhiều cơ hội để các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với các công nghệ, giải pháp, sản phẩm tiên tiến, hiện đại
- Việt Nam đang có nhiều thuận lợi trong việc thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm
- An Giang: Ứng dụng chuyển đổi số là chìa khóa góp phần tạo nên một nền nông nghiệp thông minh, bền vững, hiệu quả