Góc nhìn

Thị trường và giải pháp phát triển chuỗi cung ứng nông sản xuất khẩu

Hoàng Trọng Thủy - 13:09 30/01/2025 GMT+7
(Tapchinongthonmoi.vn) - Trong những năm gần đây, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đã lần lượt chạm đến nhiều kỷ lục mới. Tuy nhiên, dư địa của lĩnh vực này vẫn còn lớn, cần phải có những giải pháp căn cơ để thúc đẩy phát triển chuỗi cung ứng bền vững.
TIN LIÊN QUAN
Thủy sản là một trong những mặt hàng cần hệ thống kho lạnh lớn để bảo quản. Trong ảnh: Chế biến thủy sản xuất khẩu ở Công ty CP Thủy sản Cafatex (Hậu Giang). Ảnh TRẦN TUẤN

Thị trường nông sản

Nông nghiệp Việt Nam có năng lực sản xuất dồi dào, các sản phẩm phong phú, đa dạng, có khả năng cung ứng lớn cho thị trường thế giới với lợi thế cạnh tranh từ 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) phủ khắp các thị trường lớn của thế giới… Các FTA đã tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các mặt hàng nông, lâm, thủy sản chiến lược và có thế mạnh nhờ cam kết cắt giảm thuế quan; đồng thời, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao vào khu vực nông nghiệp, tham gia sâu, bền vững vào chuỗi cung ứng toàn cầu. 

Trong thời gian tới, lĩnh vực xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn phải đối diện với năm thách thức lớn:

Một là, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao 

Hai là, chi phí vận tải, logistics chưa có dấu hiệu giảm. 

Ba là, chính sách nhập khẩu của các nước liên tục thay đổi.

Bốn là, yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng ngày càng tăng. 

Năm là, người tiêu dùng nước ngoài có xu hướng thắt chặt chi tiêu do áp lực lạm phát.

Sáu là, trong bối cảnh giá năng lượng dự báo tăng cao, đặc biệt là giá lương thực, thực phẩm, từ đó đặt ra thách thức đối với việc bảo đảm an ninh lương thực và suy giảm giá trị thặng dư. 

Trước những thách thức nêu trên, để đảm bảo sự bền vững trong chuỗi cung ứng nông sản xuất khẩu toàn cầu, Việt Nam cần: 

1. Tăng cường xuất khẩu 10 nông sản chủ lực vốn đã có thị trường ổn định;

2. Triển khai việc thực hiện Nghị định thư về xuất khẩu sầu riêng đông lạnh, dừa tươi và cá sấu nuôi sang thị trường Trung Quốc

3. Quyết liệt trong tháo gỡ “thẻ vàng” IUU của Liên minh châu Âu về thủy sản càng sớm càng tốt…

4. Phát triển mạnh cơ sở hạ tầng kho bãi và hệ thống logistics, vận chuyển bằng đường sắt, đường biển… Qua đó, tăng thêm cơ hội xuất khẩu nông sản chính ngạch sang thị trường chủ lực Trung Quốc, và kết nối chặt chẽ với hệ thống thương mại biên mậu với các quốc gia trong khu vực…

5. Cải thiện quy trình sản xuất nông nghiệp bền vững, sự minh bạch trong truy xuất nguồn gốc nông sản đáp ứng yêu cầu của bên nhập khẩu. 

Đề xuất mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản xuất khẩu 

Mục tiêu của chuỗi là đảm bảo cung cấp một cách hiệu quả cho thị trường quốc tế sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, an toàn, tiện lợi với mức giá phù hợp và sự lựa chọn đa dạng, cũng như thân thiện với môi trường, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng trên thị trường xuất khẩu. Mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản xuất khẩu sẽ được chia làm 3 cấp, tùy thuộc vào quy mô của các hộ nuôi trồng sản phẩm nông sản lớn hay nhỏ.

Cấp 1 có thể áp dụng đối với các hộ nuôi trồng sản phẩm nông sản với quy mô lớn, có thể bán trực tiếp sản phẩm nông sản cho các đơn vị chế biến, đồng thời đủ khả năng xuất khẩu trực tiếp với khách hàng quốc tế. Chuỗi cung ứng cấp 1 ngắn hơn, với sự liên kết giữa các thành viên chặt chẽ hơn, khả năng kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm cao hơn.

Cấp 2 là chuỗi cung ứng hoạt động với quy mô nhỏ ở đầu vào với rất nhiều nông hộ nhỏ và cần có sự tham gia tích cực của lực lượng thu gom để cung cấp cho doanh nghiệp chế biến và nhà xuất khẩu.
Cấp 3 có thể áp dụng với các sản phẩm nông sản quy mô nhỏ, đặc điểm của chuỗi với sự tham gia của nhiều chủ thể. Đặc biệt, trong chuỗi có sự tham gia của sàn thương mại nông sản sẽ tạo thuận lợi cho các khách hàng ở nước ngoài tham gia vào chuỗi.
Bên cạnh đó, còn có các doanh nghiệp gián tiếp tham gia chuỗi và hỗ trợ cho các thành viên chính trong chuỗi, đó là các doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào (trong đó có một số mặt hàng như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật...).

Mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản xuất khẩu - Nguồn: Tác giả tự đề xuất.

Đề xuất giải pháp phát triển chuỗi cung ứng nông sản xuất khẩu 

Giải pháp về tổ chức sản xuất:

1. Hoàn thiện và công bố quy hoạch các vùng nuôi trồng hàng nông sản xuất khẩu theo từng nhóm hàng đặc trưng trên từng địa bàn, khuyến khích các hộ sản xuất tham gia các vùng được quy hoạch thông qua hoạt động đầu tư vốn, hỗ trợ thực hiện chuyển đổi giống trên diện tích canh tác hiện có, hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ cho các hộ nông dân nhằm tăng năng suất, đạt hiệu quả cao.

2. Khuyến khích các hộ nuôi trồng sản phẩm nông sản đăng ký chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Thực hiện đăng ký chỉ dẫn địa lý, bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho từng khu vực sản xuất, nhằm hạn chế sự gian lận về nguồn gốc xuất xứ.

3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, nhất là của chính quyền cơ sở; khuyến khích các hộ nông dân giám sát lẫn nhau trong quá trình sản xuất, tiến tới thực hiện các chứng nhận sản phẩm bền vững đạt tiêu chuẩn quốc tế.

4. Phát triển các các mô hình liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và nông dân theo chuỗi giá trị, phát triển vùng nguyên liệu ổn định gắn với cơ sở chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

5. Xây dựng các điểm thu gom, xử lý toàn bộ bao gói phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sử dụng nuôi trồng sản phẩm nông sản.

Đề xuất giải pháp về quản trị thương mại

1. Khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở chế biến hàng nông sản xuất khẩu đầu tư công nghệ mới vào dây chuyền sản xuất chế biến đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu.

2. Khuyến khích các doanh nghiệp chế biến đầu tư nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, xây dựng các thương hiệu mạnh, có uy tín trên thị trường xuất khẩu.

3. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tăng cường hệ thống thông tin về thị trường, khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật mới cho các hộ nuôi trồng, chế biến và các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua hoạt động của các hội, hiệp hội, các phương tiện thông tin đại chúng…

4. Đẩy mạnh hoạt động của các Hiệp hội ngành nghề Trung ương và các hiệp hội tại các địa phương trong hoạt động xúc tiến, quản lý hoạt động sản xuất và chế biến của các thành viên, rà soát sự xuất hiện của hàng giả và áp dụng các biện pháp chống gian lận thương mại về nguồn gốc xuất xứ và chất lượng, chủng loại của sản phẩm.

5. Tạo lập và tăng cường liên kết các thành viên trong chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản xuất khẩu cùng vận hành và phát triển bền vững; Nâng cao nhận thức về chuỗi cung ứng và lợi ích của các thành viên khi tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản xuất khẩu; Tăng cường mức độ hợp tác giữa các thành viên và xác định đầy đủ, cân đối hài hòa được lợi ích của tất cả thành viên, trong đó, đặc biệt là sự hợp tác giữa các hộ nông dân nuôi trồng hàng nông sản.

6. Chú trọng xây dựng thương hiệu cho nông sản: Các hiệp hội ngành hàng nông sản nên tổ chức giới thiệu sản phẩm của ngành mình cho người tiêu dùng tại các nước mà hàng Việt Nam xuất khẩu tới, nhằm tạo dựng niềm tin của người tiêu dùng đối với các sản phẩm nông sản mang thương hiệu Việt Nam. Có thương hiệu, hàng nông sản của nước ta mới có thể tham gia bền vững vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Chế biến hạt điều xuất khẩu. Ảnh minh họa

Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực doanh nghiệp

 Trước mắt, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu với vai trò là người điều hành “chuỗi giá trị” cần chủ động tiếp cận và ký kết các bản ghi nhớ về liên kết; sau đó tiến tới ký kết hợp đồng chính thức với các hộ sản xuất trong vùng nguyên liệu đã quy hoạch, theo hướng hợp đồng đảm bảo tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo lập niềm tin cho các hộ nông dân nuôi trồng, khuyến khích họ có trách nhiệm với việc nuôi trồng sản phẩm nông sản xuất khẩu. Đồng thời, với vai trò là trung tâm chuỗi, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cũng cần có sự kết nối chặt chẽ với hệ thống thông tin của các thành viên khác trong chuỗi. Sự chia sẻ và kết nối hiệu quả sẽ góp phần cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời cho tất cả các thành viên trong chuỗi, giúp cân đối tốt hơn công tác thu mua, dự trữ và vận chuyển; hướng tới giảm thiểu những dao động về cung cầu trên thị trường; từng bước đáp ứng yêu cầu truy nguyên nguồn gốc xuất xứ sản phẩm nông sản xuất khẩu.

Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích và hỗ trợ phù hợp để tăng cường và mở rộng đầu tư, liên kết, chuyển giao công nghệ theo hướng hình thành các cơ sở chế biến quy mô lớn, công nghệ hiện đại, qua đó tăng được công suất chế biến, tăng tỷ lệ chế biến sâu, tạo sản phẩm chất lượng, đáp ứng nhu cầu cao của thị trường Thế giới. 
    *Nguyên TBT Tạp chí Nông thôn mới
 

Tin cùng chuyên mục
Tin khác